Bản án số 796/2024/DS-PT ngày 20/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 796/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 796/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 796/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 796/2024/DS-PT ngày 20/09/2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
Số hiệu: | 796/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 20/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 38/2023/DS-ST ngày 28/8/2023 của Toà án nhân dân tỉnh BT; |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 796/2024/DS-PT
Ngày: 20 - 9 - 2024
V/v: “Tranh chấp đất đai và yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa:
Bà Trần Thị Hòa Hiệp
Các Thẩm phán:
Ông Phạm Văn Công
Bà Đinh Ngọc Thu Hương
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Châu Loan - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phượng - Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
712/2023/TLPT-DS ngày 22 tháng 11 năm 2023 về “Tranh chấp đất đai và yêu
cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2023/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2023
của Tòa án nhân dân tỉnh BT bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2685/2024/QĐ-PT ngày
26 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Phan Thị Đ, sinh năm 1959 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số C, đường A, thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh BT.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1965 (vắng mặt).
Địa chỉ: Số B, đường A, thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh BT;
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1993 (có mặt);
Địa chỉ: Số A, đường A, thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh BT;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Đặng Trường
T1, Đoàn Luật sư Thành phố H (có mặt).
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Trần T2, sinh năm 1968 (vắng mặt);
2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1973 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: Thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh BT.
3. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1991(vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, đường A, thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh BT.
4. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1993 (có mặt);
Địa chỉ: Số A, đường A, thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh BT;
5. Bà Nguyễn Thị L1, sinh năm: 1994 (vắng mặt);
Địa chỉ: Số B, đường A, thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh BT.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị H và bà Nguyễn Thị L1:
Bà Nguyễn Thị T (có mặt).
6. Ủy ban nhân dân huyện H.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà Lê Thanh C – Chủ tịch Ủy ban
nhân dân huyện H (vắng mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Phan Công S1 – Chuyên
viên Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện H (vắng mặt).
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị S.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/6/2021, đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
02/7/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là bà Phan Thị Đ
trình bày:
Nguồn gốc thửa đất đang tranh chấp có diện tích 104,9m
2
(sau khi được đo
đạc thực tế) là một phần của thửa đất mà gia đình bà Đ nhận chuyển nhượng từ
bà Đ1. Thửa đất này giáp ranh với thửa đất mà ông Trần T2 và bà Nguyễn Thị L
nhận chuyển nhượng của bà Đ2, hiện đã chết. Trong quá trình sử dụng, các bên
đã cắm mốc giới, làm hàng rào phân định ranh giới đất rất rõ ràng, không tranh
chấp. Đến năm 2006, ông T2 và bà L chuyển nhượng lại đất cho bà S và ông K.
Từ khi nhận chuyển nhượng cho đến khi phát sinh tranh chấp, gia đình bà S vẫn
sử dụng diện tích đất đúng theo mốc giới đã được phân định trước đó. Đến giữa
năm 2021, gia đình bà S dỡ hàng rào cũ để xây dựng hàng rào mới thì xâm lấn
qua phần đất của gia đình bà Đ, dẫn đến tranh chấp. Khi được Ủy ban nhân dân
(sau đây viết tắt là UBND) xã giải quyết, bà S mới biết được phần đất trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 850516, do UBND huyện H ngày
24/8/2005, bao phủ qua phần đất của bà Đ nên đã tự ý dời hàng rào từ vị trí cũ
3
lên phần đất tranh chấp như hiện trạng được ghi nhận tại biên bản xem xét thẩm
định tại chỗ mà Tòa án đã thực hiện.
Trong quá trình sử dụng đất của mình, bà Đ có làm nhà tạm trên đất, việc
này được ông Ngô Văn S2, bà Hồ Thị T3, ông Nguyễn Xuân T4, ông Hoàng
Hữu L2, bà Hồ Thị Phương N, bà Nguyễn Thị T5, bà Nguyễn Thị Đ3 biết và
làm chứng cho quá trình sử dụng đất của gia đình bà Đ.
Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 831570, do Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B cấp ngày 23/9/2020 cho ông Nguyễn Xuân T4, thể hiện
cạnh phía tây, dài 8m, của thửa đất số 59, tờ bản đồ số 30, giáp đất của bà Phan
Thị Đ. Trên thực địa, mặt tiếp giáp phía đông của thửa đất tranh chấp chính là
phần đất thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Xuân T4. Điều này chứng minh
rằng, khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 831.570, Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B xác định, bà Đ là người có quyền sử dụng đất đối
với phần đất giáp ranh này.
Tại bản sao đơn yêu cầu đề ngày 06/5/2021, do bị đơn nộp kèm theo đơn
xin hoãn nộp bản tự khai đề ngày 04/8/2021, cũng thể hiện “Trong quá trình sử
dụng đất, vì chưa đủ điều kiện nên gia đình tôi vây lưới tạm phía sau để nuôi gà
và trồng cây, nay đủ điều kiện và theo nhu cầu của gia đình, tôi được chính
quyền xuống đo đạc lại đất nhằm xác định lại vị trí đồng thời xây dựng lại bìa
bao cho chắc chắn”. Mặc dù nội dung trình bày trong đơn là không đúng sự
thật, nhưng căn cứ vào nội dung này thì chính bản thân bà S cũng đã thừa nhận
rằng bản thân bà S và gia đình bà S chưa từng sử dụng phần đất tranh chấp,
thậm chí là không xác định được ranh giới thửa đất của mình.
Việc UBND huyện H chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 850.516 ngày
24/8/2005 có một phần diện tích là không đúng đối tượng sử dụng đất, không
phù hợp với hiện trạng sử dụng đất, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp
của bà Đ nên cần thiết phải hủy bỏ để cấp lại cho đúng.
Tính đến trước khi xảy ra tranh chấp, phần diện tích đất này mặc dù chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Đ, nhưng bà Đông đủ điều
kiện để được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 Điều 101
Luật Đất đai, Điều 20, 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ về
hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
Chính vì vây, bà Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Nguyễn
Thị S phải trả lại cho bà Đ phần đất có diện tích 104,9m
2
, tọa lạc tại thôn Đ, xã
T, huyện H, tỉnh BT. Buộc bà Nguyễn Thị S phải di dời toàn bộ tài sản do bà S
tạo lập ra khỏi phần đất này; hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC
850.516 do UBND huyện H ngày 24/8/2005.
Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, bị đơn bà Nguyễn
Thị S, người đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị T, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của bị đơn Luật sư Đặng Trường T1 trình bày:
4
Diện tích đất tranh chấp là do vợ chồng bà Nguyễn Thị S nhận chuyển
nhượng của vợ chồng ông Trần T2 và bà Nguyễn Thị L, thuộc Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AC 850516 do UBND huyện H ngày 24/8/2005. Trên đất
có nhà và trồng cây ăn trái, gia đình bà S vẫn giữ nguyên hiện trạng và sử dụng
cho đến nay, không hề lấn, chiếm như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên, trong
quá trình giải quyết vụ án, bà S nhận biết được UBND huyện cấp giấy chứng
nhận nêu trên là sai lệch về diện tích, không đúng với diện tích thực tế sử dụng,
nên bà S có đơn khiếu nại đề nghị UBND huyện H điều chỉnh lại cho đúng. Bà S
không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đ.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Trần T2 trình bày:
Năm 1995, vợ chồng ông Trần T2 và bà Nguyễn Thị L có nhận chuyển
nhượng của một người tên T6 một thửa đất, khi nhận chuyển nhượng bằng
miệng, không xác định diện tích chính xác là bao nhiêu. Sau khi nhận chuyển
nhượng thì vợ chồng ông T2, bà L có làm nhà bằng gỗ để ở và có làm hàng rào
thép B40 để phân định ranh giới đất với đất của gia đình nguyên đơn. Đến năm
2002, do chuyển nơi ở mới nên ông T2, bà L chuyển nhượng lại phần đất này
cho bà S, ông K. Ông T2 xác định trước đây bà Đ có làm nhà tạm trên phần đất
phía sau đất mà gia đình ông đang sử dụng nhưng không xác định được căn nhà
có làm trên phần đất tranh chấp hay không. Do hiện trạng đất đã thay đổi nên
ông T2 không xác định được phần diện tích đất tranh chấp có nằm trong phần
diện tích đất mà vợ, chồng ông, bà đã chuyển nhượng cho vợ chồng bị đơn hay
không, nhưng ông T2 thừa nhận nền đất mà vợ chồng ông sử dụng cao hơn nền
đất nguyên đơn sử dụng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T và bà Nguyễn Thị L1
trình bày:
Phần diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của vợ, chồng bà
Nguyễn Thị S, lời trình bày của bà S là đúng sự thật, đề nghị Tòa án không chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đ.
Tại Công văn số 3482/UBND-TNMT, ngày 08/10/2021, và trong quá trình
giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
là Ủy ban nhân dân huyện H, người đại diện theo ủy quyền là ông Phan Công
S1 trình bày:
Ủy ban nhân dân huyện H không có ý kiến gì đối với phần trình bày của
nguyên đơn, bị đơn trong vụ án, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của
pháp luật. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 850.516, ngày
24/8/2005, đứng tên ông Trần T2 và bà Nguyễn Thị L là đúng theo quy định của
pháp luật tại thời điểm cấp.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2023/DS-ST ngày 28 tháng 8 năm 2023
của Tòa án nhân dân tỉnh BT quyết định:
5
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Đ:
- Buộc bà Nguyễn Thị S và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông Nguyễn Văn K1 gồm bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị T và bà Nguyễn Thị
L1 phải trả cho bà Phan Thị Đ thửa đất có diện tích 104,9m
2
, tọa lạc tại thôn Đ,
xã T, huyện H, tỉnh BT (Kèm theo Mảnh trích đo hiện trạng khu đất do Chi
nhánh Văn phòng Đ4 thực hiện vào ngày 09/8/2022).
- Buộc bà S, bà H, bà T và bà L1 phải tháo dỡ và di dời:
+ 11 cây chuối;
+ 04 cây dừa;
+ 04 trụ thanh long;
+ Tường rào xây gạch có lưới B40;
+ Tường rào xây gạch không lưới;
+ Hàng rào lưới B40.
Và các tài sản khác được tạo lập sau ngày Tòa án tiến hành xem xét thẩm
định tại chỗ ngày 25/11/2021 (nếu có).
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 850516, do UBND huyện
H ngày 24/8/2005, cho ông Trần T2, bà Nguyễn Thị L, đăng ký chuyển quyền
cho ông Nguyễn Văn K1, bà Nguyễn Thị S ngày 05/4/2006.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ
thẩm và thông báo về quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của
pháp luật.
Ngày 06/9/2023, bị đơn bà Nguyễn Thị S có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án
cấp phúc thẩm hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm,
Bị đơn bà Nguyễn Thị S có người đại diện theo ủy quyền là bà Nguyễn Thị
T trình bày: Bà T đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì các lý do sau: Gia đình bà Nguyễn Thị S
không lấn chiếm diện tích đất, chỉ sử dụng đúng phần diện tích đất trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 850516 ngày 24/8/2005 do Ủy ban nhân
dân huyện H. Vợ chồng bà S nhận chuyển nhượng thửa đất có diện tích là
756m
2
từ vợ chồng ông Trần T2 và bà Nguyễn Thị L; tuy nhiên chỉ có 630m
2
đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Thực tế, bản vẽ trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và tại thực địa thì diện tích đất của gia đình bà sử
dụng là 756m
2
. Ngoài ra, tại thời điểm nhận chuyển nhượng thửa đất nêu trên,
trên đất chỉ có một vài cây trồng tạm. Sau này, gia đình bà có thực hiện việc đổ
đất nên dẫn đến phần diện tích đất của gia đình bà có chỗ cao, chỗ thấp.
Luật sư Đặng Trường T1 trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ
thẩm vì Toà án cấp sơ thẩm đã đưa ra phán quyết không phù hợp với sự thật
6
khách quan. Theo Bản vẽ hiện trạng của thửa đất ngày 28/5/2022, phần diện tích
đất của bà Đ có phần đuôi lấn sang phần diện tích của bà S, phía bên phải thửa
đất của bà S lấn sang nhà bên hướng đông. Trong sổ đỏ mà Ủy ban nhân dân
cung cấp cho Tòa án còn thể hiện số đo như sau: Cạnh AB 19m (chiều dài mặt
tiền), phía sau là cạnh CD 17m, hiện trạng không có gì thay đổi. Bà Đ cho rằng
phần diện tích đất đằng sau được xây hàng rào thuộc quyền sử dụng của bà Đ là
không có căn cứ vì phần diện tích đất đó thuộc về Nhà nước quản lý, bà Đ chưa
được cấp sổ đối với phần diện tích đất đó. Bà Đ được cấp sổ năm 2006, còn bà S
được cấp sổ năm 2005 nhưng người đi đăng ký, kê khai làm sổ là ông Trần T2.
Phần diện tích đất đo đạc thực tế của bà Đ lại lớn hơn phần diện tích đất được
cấp trong sổ. Ngoài ra, trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà S thì
phần diện tích đất được công nhận là 630m
2
; tuy nhiên nếu so với kích thước các
tứ cạnh của thửa đất khi nhân ra lại là 875m
2
nên đây là sự nhầm lẫn của Văn
phòng đăng ký đất đai. Sau này khi khởi kiện ra Tòa án thì mới phát hiện sự
chênh lệch này.
Ngày 10/6/2021, đơn vị địa chính của Ủy ban nhân dân xã T xuống lập
biên bản về việc đo đạc lại phần diện tích đất của bà S và bà Đ. Theo đó, phần
diện tích đất được đo đạc lại được xác định giống với trong giấy chứng nhận
được cấp. Bà Đ không đồng ý với kết quả đo đạc nên khởi kiện ra Tòa án. Việc
bà Đ cho rằng bà S lấn chiếm là không có căn cứ. Trong quá trình giải quyết vụ
án, ông T2 có các lời khai khác nhau; còn các nhân chứng trong vụ án này đa số
đều là bà con, anh chị em của bà Đ, họ đều sống ở xa nên đưa ra các lời khai
không khách quan. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm, chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của bà S.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh trình
bày quan điểm giải quyết vụ án như sau:
Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của
pháp luật tố tụng. Các đương sự thực hiện quyền, ngha vụ theo đúng quy định
pháp luật.
Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị S, theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AC 831570 ngày 11/7/2019 do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp cho ông Nguyễn Xuân T4 có cạnh phía tây của thửa đất số 59,
tờ bản đồ số 30 tiếp giáp với phần diện tích đất của bà Phan Thị Đ thể hiện bà Đ
là chủ sử dụng đất. Bà Đ là người ký xác nhận tên người sử dụng đất, chủ sử
dụng phần diện tích đất liền kề. Việc bà Đ xây dựng nhà tạm trên phần diện tích
đất tranh chấp được ông Nguyễn Xuân T4, ông Ngô Văn S2 làm chứng. Theo
ông T4 - người sử dụng thửa đất giáp ranh với phần diện tích đất tranh chấp
khẳng định rằng phần diện tích đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của bà Đ.
Căn cứ vào hình ảnh kèm theo đơn trình bày ý kiến ngày 12/9/2022, biên bản
lấy lời khai của ông Trần T2 thì xác định rằng phần diện tích đất bị đơn sử dụng
cao hơn phần diện tích đất tranh chấp và phần diện tích đất còn lại của nguyên
đơn. Do đó có đầy đủ cơ sở xác định rằng bà Đ là người trực tiếp sử dụng phần
diện tích đất tranh chấp. Bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng
7
cứ mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên
tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét:
[1] Tòa án cấp sơ thẩm có sự nhầm lẫn về tên của người có quyền lợi và
ngha vụ liên quan là bà Nguyễn Thị L nên Hội đồng xét xử phúc thẩm điều
chỉnh lại cho chính xác. Ngoài ra, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC
850516 ngày 24/8/2005 do Ủy ban nhân dân huyện H cho ông Trần T2 và bà
Nguyễn Thị L được chỉnh lý sang cho ông Nguyễn Văn K1, bà Nguyễn Thị S
vào ngày 04/5/2006, không phải ngày 05/4/2006 như trong bản án sơ thẩm xác
định.
[2] Về tố tụng:
Nguyên đơn là bà Phan Thị Đ; những người có quyền lợi, ngha vụ liên
quan là ông Trần T2, bà Nguyễn Thị L, bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị L1 và
Ủy ban nhân dân huyện H, tỉnh BT được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2
đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015, Toà án tiến hành phiên toà phúc thẩm xét xử vắng mặt những
người tham gia tố tụng trên.
[3] Về nội dung vụ án:
Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn Phan Thị Đ yêu cầu Toà án buộc bà
Nguyễn Thị S và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Văn
K1 gồm bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T và Nguyễn Thị L1 phải trả cho bà
Phan Thị Đ thửa đất có diện tích 104,9m
2
, tọa lạc tại thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh
BT.
[4] Về nguồn gốc, quá trình sử dụng đất:
[4.1] Tại Đơn xin cung cấp thông tin đề ngày 10/01/2023, đứng tên bà
Nguyễn Thanh P và bà Nguyễn Thanh N1, có chứng thực của UBND xã T, có
nội dung xác định toàn bộ diện tích thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số AG 164476 do UBND huyện H ngày 16/10/2006 và diện tích đất tranh chấp
có nguồn gốc là do cha, mẹ của nguyên đơn nhận chuyển nhượng từ người khác.
Sau khi ông Nguyễn K2 chết, bà N1, bà P và bà Đ đã thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế theo hướng bà Đ được toàn quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất này.
[4.2] Theo đơn trình bày ý kiến đề ngày 12/9/2022, bà Phan Thị Đ cung
cấp hình ảnh cho thấy phần đất của bị đơn sử dụng có nền cao hơn phần đất
tranh chấp cũng như phần đất còn lại của nguyên đơn. Tại Biên bản lấy lời khai
lập ngày 14/12/2022, ông Trần T2 cũng xác định phần đất mà vợ, chồng ông sử
dụng trước khi chuyển nhượng cho bị đơn nằm phía trên nền đất cao hơn nền đất
mà nguyên đơn sử dụng. Đồng thời, bà Đ khẳng định sau khi nhận chuyển
nhượng, gia đình bà có làm nhà tạm trên phần đất tranh chấp này. Lời trình bày
8
này của bà Đ được bà Nguyễn Thị Đ3, ông Nguyễn Xuân T4, ông Nguyễn Văn
S3 làm chứng tại Biên bản lấy lời khai lập ngày 25/11/2021. Trong đó, ông T4 là
người sử dụng thửa đất giáp ranh giới với diện tích đất tranh chấp, khẳng định
phần đất tranh chấp này thuộc quyền sử dụng của bà Đ, trước đây hàng rào thép
B40 do bà S tạo lập là tiếp theo ranh giới phía Bắc của thửa đất mà ông T4 có
quyền sử dụng. Bà T, ông T2 cũng xác định trước đây gia đình bà Đ có xây
dựng nhà tạm ở phía sau thửa đất thuộc quyền sử dụng của bị đơn, nhưng bà T
xác định phần đất làm nhà không nằm trong phần đất tranh chấp, còn ông T2
không xác định được do hiện trạng đất đã thay đổi.
[5] Quá trình đăng ký quyền sử dụng đất:
[5.1] Tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khắc gắn liền với đất số CV 831570, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B
cấp cho ông Nguyễn Xuân T4, đối với thửa đất số 59, tờ bản đồ số 30, thể hiện
cạnh phía Tây của thửa đất tiếp giáp đất của bà Phan Thị Đ. Bản mô tả ranh giới,
mốc giới thửa đất lập ngày 11/7/2019, thuộc hồ sơ cấp giấy chứng nhận CV
831570 cũng thể hiện bà Đ là người có quyền sử dụng đối với phần đất tiếp giáp
phía tây của thửa đất số 59 và bà Đ là người ký xác nhận tên người sử dụng đất,
chủ quản lý đất liền kề trên biên bản này. Tại Mảnh trích đo hiện trạng khu đất
do Chi nhánh Văn phòng Đ4 thực hiện cho thấy giữa thửa đất số 59 thuộc Giấy
chứng nhận số CV 831570 và phần đất tranh chấp còn một phần đất khác. Tuy
nhiên, tại Công văn số 171/UBND, ngày 12/12/2022, UBND xã T xác định phần
đất này thuộc quyền sử dụng của ông Nguyễn Xuân T4. Phù hợp với nội dung
xác định của bà T tại biên bản lấy lời khai lập ngày 02/02/2023 và lời khai của
ông T2 tại biên bản lập ngày 14/12/2022.
[5.2] Theo Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông
Trần T2 và bà Nguyễn Thị L đề ngày 01/01/2005, khai nguồn gốc đất là khai
hoang năm 1998, nội dung này UBND xã T xác nhận là không đúng với thực tế,
không phù hợp với lời khai của ông Trần T2 trong hồ sơ vụ án. Ngoài ra, hồ sơ
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 850516 do UBND huyện H gửi
kèm theo Công văn số 3482/UBND-TNMT ngày 08/10/2021 thể hiện không có
các tài liệu trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính. Ngày
25/02/2005, UBND xã T thực hiện việc công khai hồ sơ đăng ký đất, với thời
hạn công khai 15 ngày nhưng khi chưa hết thời hạn 15 ngày thì UBND xã T đã
có Tờ trình số 172/TT/UBTH ngày 25/02/2005 gửi Phòng T, UBND huyện H đề
nghị cấp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đát cho 85 hộ gia đình, cá nhân sử
dụng đất, trong đó có ông Trần T2 và bà Nguyễn Thị L là không đúng quy định.
[5.3] Theo Mảnh trích đo địa chính do Chi nhánh Văn phòng Đ4 thực hiện
vào ngày 09/8/2022 thể hiện phần đất tranh chấp có diện tích 104,9m
2
có một
phần nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 164476 do UBND
huyện H cho hộ ông Nguyễn K2 và bà Phan Thị Đ ngày 16/10/2006; một phần
thuộc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 850516 cấp cho ông Trần T2,
bà Nguyễn Thị L, điều chỉnh sang tên cho bà Nguyễn Thị S, ông Nguyễn Văn
K1; một phần nằm ngoài 02 giấy chứng nhận nêu trên. Tuy nhiên, phần nằm
9
ngoài 02 giấy chứng nhận này không thuộc giấy chứng nhận nào đã cấp cho các
hộ liền kề theo xác định của UBND huyện H tại Công văn số 4214/UBND-
TNMT, ngày 27/12/2022, và ông Nguyễn Xuân T4 là người có đất tiếp giáp với
diện tích đất tranh chấp cũng xác định toàn bộ diện tích đất tranh chấp này là
thuộc quyền sử dụng của bà Phan Thị Đ.
[5.4] Phía bị đơn cho rằng, theo sơ đồ thửa đất số 325, tờ bản đồ số 04 của
giấy chứng nhận QSDĐ số AC 850516 cấp cho vợ chồng ông Trần T2 thì diện
tích thửa đất số 325 là 756m
2
. Việc UBND huyện H diện tích 630m
2
là có sự
nhầm lẫn. Xét thấy, tại đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên
ông Trần T2 và bà Nguyễn Thị L đề ngày 01/01/2005 thì ông T2 ghi diện tích
xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 630m
2
. Đồng thời, xét thấy tại
thời điểm đo đạc để làm căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC
850516 được thực hiện bằng phương pháp thủ công nên sai số là điều không
tránh khỏi. Do đó, lời khai của phía bị đơn cho rằng thửa đất có diện tích 756m
2
là không có cơ sở.
[6] Từ những phân tích như trên, qua đánh giá về nguồn gốc, quá trình sử
dụng và đăng ký quyền sử dụng đất thì có đủ cơ sở để xác định xác định bà Phan
Thị Đ có quyền sử dụng đối với phần đất tranh chấp có diện tích 104,9m
2
, tọa
lạc tại thôn Đ, xã T, huyện H, tỉnh BT; Đồng thời, việc cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AC 164476 là không đúng đối tượng sử dụng đất, đối với
diện tích đất tranh chấp, không đúng trình tự, thủ tục được quy định nên cần
phải hủy bỏ để UBND huyện H thực hiện lại nhiệm vụ, công vụ theo đúng quy
định pháp luật.
[7] Đối với các tài sản trên đất:
Toàn bộ tài sản trên thửa đất tranh chấp, đã được Tòa án tiến hành xem xét,
thẩm định tại chỗ, là do bị đơn tạo lập sau thời điểm phát sinh tranh chấp, mặc
dù bà Đ đã ngăn cản nhưng phía bị đơn vẫn cố tình tạo lập, phù hợp với các hình
ảnh về thửa đất tranh chấp do nguyên đơn cung cấp trong quá trình giải quyết vụ
án, kết quả xem xét thẩm định tại chỗ do Tòa án tiến hành vào ngày 25/11/2021,
nội dung nêu tại đơn yêu cầu giải quyết đề ngày 06/5/2021 đứng tên bà Nguyễn
Thị S gửi UBND xã T, lời khai của bà T tại Biên bản lấy lời khai ngày
02/02/2023. Do đó, Toà án buộc bà S, bà H, bà T và bà L1 phải tháo dỡ và di
dời những tài sản trên đất.
[8] Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, bị đơn phải chịu án phí
phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Các quyết định khác của bản án sở thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các l trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
10
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm
số 38/2023/DS-ST ngày 28/8/2023 của Toà án nhân dân tỉnh BT;
Căn cứ:
- Khoản 9 Điều 26, điểm c khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 34, Điều 157,
Điều 165, Điều 235, Điều 264, Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự, khoản 4 Điều
32 Luật tố tụng hành chính.
- Điều 50 Luật Đất đai 2003; khoản 24 Điều 3, Điều 100 Luật Đất đai
2013; Điểm b khoản 2 Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP, ngày
29/10/2004, của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003.
- Điểm 1.3, Điều 1, Mục I Thông tư liên tịch số 38/2004/TT-BTNMT-
BNV, ngày 31/12/2004, của Bộ T7, Bộ N2
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Tòa án, áp dụng đối với cơ quan, tô chức, cá nhân có liên
quan đến án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị Đ:
- Buộc bà Nguyễn Thị S và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông Nguyễn Văn K1 gồm bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị T và Nguyễn Thị L1
phải trả cho bà Phan Thị Đ thửa đất có diện tích 104,9m
2
, tọa lạc tại thôn Đ, xã
T, huyện H, tỉnh BT (Kèm theo Mảnh trích đo hiện trạng khu đất do Chi nhánh
Văn phòng Đ4 thực hiện vào ngày 09/8/2022).
- Buộc bà S, bà H, bà T và bà L1 phải tháo dỡ và di dời:
+ 11 cây chuối;
+ 04 cây dừa;
+ 04 trụ thanh long;
+ Tường rào xây gạch có lưới B40;
+ Tường rào xây gạch không lưới;
+ Hàng rào lưới B40.
Và các tài sản khác được tạo lập sau ngày Tòa án tiến hành xem xét thẩm
định tại chỗ ngày 25/11/2021 (nếu có).
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AC 850516, do UBND huyện
H ngày 24/8/2005, cho ông Trần T2, bà Nguyễn Thị L, đăng ký chuyển quyền
cho ông Nguyễn Văn K1, bà Nguyễn Thị S ngày 04/5/2006.
2. Án phí phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị S phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm
11
ứng án phí, lệ phí Tòa án theo Biên lai thu số 0020568 ngày 18/9/2023 của Cục
Thi hành án dân sự tỉnh BT.
Các quyết định khác của bản án sở thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi
hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của
Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
− Tòa án nhân dân tối cao (1);
− VKSNDCC tại TP. Hồ Chí Minh (1);
− TAND tỉnh BT (1);
− VKSND tỉnh BT (1);
− Cục THADS tỉnh BT (1);
− Các đương sự (15);
− Lưu: HSVA (NTCL).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
CÁC THẨM PHÁN
Phạm Văn Công Đinh Ngọc Thu Hương
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Thị Hòa Hiệp
Tải về
Bản án số 796/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 796/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 05/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 14/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 15/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 15/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 09/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 05/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 08/11/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 15/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 14/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 13/09/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm