Bản án số 09/2025/DS-ST. ngày 12/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 8 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 09/2025/DS-ST.

Tên Bản án: Bản án số 09/2025/DS-ST. ngày 12/06/2025 của Tòa án nhân dân khu vực 8 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: Tòa án nhân dân khu vực 8 - Khánh Hòa, tỉnh Khánh Hòa
Số hiệu: 09/2025/DS-ST.
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN THUẬN NAM
TỈNH NINH THUẬN
Bản án số: 09/2025/DS-ST.
Ngày: 12 - 6 - 2025.
“V/v tranh chấp đòi tài sản là
quyền sử dụng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN NAM, TỈNH NINH THUẬN
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thức.
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Bùi Thị Thanh Yên, bà Phan Thị Hải Thanh.
Thư phiên tòa: Ông Phan Xuân Sơn - Thư Tòa án nhân dân huyện
Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận
tham gia phiên tòa: Bà Hồ Thị Trang - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam,
tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 68/2022/TLST-DS ngày
18 tháng 10 năm 2022 về “Tranh chấp đòi tài sản quyền sử dụng đất”, theo Quyết
định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2025/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 5 năm 2025, Quyết
định hoãn phiên toà số: 06/2025/QĐST-DS ngày 23 tháng 5 năm 2025 của Tòa án
nhân dân huyện Thuận Nam, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Huỳnh Văn D - sinh năm: 1968; trú tại: Thôn L, C, huyện
T, tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
B đơn: Bùi Thị Đ - sinh năm: 1955; trú tại: Thôn L, C, huyện T, tỉnh
Ninh Thuận (vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà Huỳnh Thị Ngọc L - sinh năm: 1975; trú tại: Thôn L, C, huyện T, tỉnh
Ninh Thuận (có mặt);
- Ông Võ Minh C - sinh năm: 1976 (yêu cầu vắng mặt);
- Bà Võ Thị Mỹ N - sinh năm: 1982 (vắng mặt);
- Ông Võ Minh T - sinh năm: 1986 (vắng mặt);
- Anh Võ Ngọc S - sinh năm: 2002 (yêu cầu vắng mặt);
- Anh Võ Minh N1 - sinh năm: 1996 (vắng mặt);
Cùng trú tại: Thôn L, xã C, huyện T, tỉnh Ninh Thuận.
- Bà Võ Thị Mỹ C1 - sinh năm: 1980; trú tại: Khu phố D, thị trấn P, huyện N,
tỉnh Ninh Thuận (yêu cầu vắng mặt).
- Chị Lệ T1 - sinh năm: 1990; trú tại: Hội P, A, huyện T, tỉnh Phú Yên (yêu
2
cầu vắng mặt).
- Chị Võ Thị Ú - sinh năm: 1993; trú tại: Xóm C, thôn T, xã M, huyện P, tỉnh
Bình Định (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trong đơn khởi kiện ghi ngày 13/7/2022, nguyên đơn ông Huỳnh Văn D: Yêu
cầu Tòa án giải quyết diện tích đất tranh chấp 48m
2
thuộc thửa 91 tờ bản đồ số 27b
C. Qtrình thu thập chứng cứ, đo đạc thực tế tại Trích lục số 556 ngày 04/5/2023
thì diện tích đất tranh chấp chỉ còn 20m
2
được giới hạn bởi các điểm (4,13,14,9,15,16)
thuộc thửa 91, 92 tờ bản đồ số 27b xã C; tại phiên tòa, ông Huỳnh Văn D thay đổi
yêu cầu khởi kiện đòi 15m
2
đất thuộc một phần thửa 91, 92 tờ bản đồ 27b xã C.
Về nguồn gốc đất, ông khẳng định do vợ chồng ông khai hoang vào năm 1994.
Thời điểm khai hoang thì gia đình bà Bùi Thị Đ đã cất nhà ở và trồng 2 cây dừa làm
ranh giới đất của gia đình Đ với đất của vợ chồng ông khai hoang. Hai bên sử
dụng đất ổn định từ năm 1994 đến khi có dự án bờ kè chắn sóng (khoảng năm 2021
- 2022) thì bà Đ chặt bỏ 2 cây dừa và lấn qua đất ông khoảng 2m. Vợ chồng ông đã
thương lượng không thành nên ông khiếu nại đến C hòa giải, Đ vẫn không
thống nhất nên ông tiếp tục khởi kiện yêu cầu Tòa giải quyết buộc Đ trả lại cho
vợ chồng ông diện tích đất đã lấn chiếm. Theo Trích lục số 556/2023 ngày 04/5/2023
Tòa án đo thực tế đất tranh chấp thể hiện diện tích Đ lấn chiếm 20m
2
. Quá trình
giải quyết, gia đình bà Đ cho rằng đất gia đình bà diện tích 245m
2
nên tại phiên tòa
ông chỉ yêu cầu bà Đ trả 15m
2
theo hình thể và vị trí đo tại Trích lục bản đồ địa chính
số 515/2024 ngày 17/4/2024 của Văn phòng Đ1 chi nhánh T3. Phần diện tích đất
còn lại diện tích đất lấn đường ông không yêu cầu giải quyết. Hiện trạng đất trống
không có tài sản gì của vợ chồng ông và gia đình bà Đ tồn tại.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 23/12/2022 biên bản làm việc ngày 07/3/2024,
bị đơn bà Bùi Thị Đ trình bày: Năm 1988, vợ chồng bà (Bùi Thị Đ, Võ Minh T2) có
khai hoang đất tại khu vực đất đang tranh chấp; diện tích khai hoang 245m
2
, gia
đình bà trồng 2 cây dừa làm ranh giới. Vợ chồng bà sử dụng đất được một thời gian
thì ông Huỳnh Văn D đến khai hoang làm nhà trên phần đất liền kề thửa đất của bà.
Vợ chồng ông D được 3 - 4 năm thì tháo dỡ nhà dọn đi bỏ đất 20 năm quay lại
tranh chấp với gia đình bà. Vợ chồng bà vẫn sử dụng đất đến khi dự án xây dựng bờ
kè chống sạt lở là 24 năm; lúc này bà đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất tại Ủy ban
được quy chủ đến nay; đăng ký cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà
khẳng định phần đất tranh chấp của gia đình bà, trường hợp đo đất bà sử dụng dư t
trả thiếu thì phải đo cho đủ 245m
2
. Tại phiên họp ng khai chứng cứ hòa
giải ngày 28/3/2024, bà Đ cho rằng đất của bà chưa chắc diện tích 245m
2
mà là rộng
hơn nên không đồng ý trả và không đồng ý ký biên bản và không hợp tác.
Tại biên bản m việc ngày 07/3/2024, người quyền lợi, nghĩa vliên quan
ông Minh C, Thị Mỹ N, ông Ngọc S đều trình bày: Diện tích đất ông
Huỳnh Văn D kiện đòi gia đình các ông bà trả là đất của gia đình các ông bà do cha
mẹ khai hoang sử dụng đến nay hơn 30 năm. Các ông xác nhận, ông Huỳnh
Văn D đất phía trước liền kề đất tranh chấp nhưng ranh giới chỉ đến cây dừa;
3
ông D đã chặt 02 cây dừa chỉ lấn qua đất nhà các ông đòi đất không đúng;
các ông thống nhất ý kiến của mẹ (bà Đ) không đồng ý trả đất theo yêu cầu của
ông D. Đất gia đình các ông bà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng nhưng
có ranh rào ràng. Nếu Tòa đo đất gia đình các ông thì các ông đồng ý trả.
Các ông bà yêu cầu giải quyết, xét xử vắng mặt.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 12/3/2024, người quyền lợi, nghĩa vliên quan
Võ Thị Mỹ C1 trình bày: Bà khẳng định đất của gia đình bà diện tích 245m
2
hiện
nhà của mbà (Bùi Thị Đ) đang phần đất trống ông Huỳnh n D đang tranh
chấp. Gia đình bà sử dụng đất thực tế đến nay hơn 30 năm. Ông Huỳnh Văn D cũng
có lô đất phía trước liền kề đất của gia đình bà nhưng vợ chồng ông D bỏ đi 20 năm
quay lại chỉ đất lấn qua ranh giới đất gia đình đòi trả đất lý. Tuy nhiên,
toàn bộ đất do mẹ bà quản lý, sử dụng và bà thống nhất ý kiến của mẹ bà (bà Đ) đo
đúng đất của gia đình bà 245m
2
, phần diện tích dư đồng ý trả. yêu cầu giải quyết,
xét xử vắng mặt.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/11/2024 của Tòa án nhân dân huyện Tuy An,
tỉnh Phú Yên, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - bà Võ Lệ T1 trình bày: Bà là
con ruột bà Bùi Thị Đ và ông Võ Minh T2 (đã chết). Bà có nghe mẹ bà nói việc ông
Huỳnh Văn D tranh chấp 20m
2
đất C, T, Ninh Thuận nhưng cũng không rõ. Việc
tranh chấp đất trên, không ý kiến, yêu cầu về quyền lợi của bà. Tất cả do m
bà quyết định và Tòa căn cứ quy định pháp luật để giải quyết. yêu cầu giải quyết,
xét xử vắng mặt.
Tại biên bản về việc đương sự từ chối làm việc ngày 21/4/2025 của Tòa án nhân
dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định thể hiện: Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh
Bình Định tiến hành lấy lời khai của Thị Ú theo quyết định ủy thác s
05/2024/QĐ-UTTA ngày 22/10/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam, tại
nơi làm việc của bà Ú là khu phố D, thị trấn B, huyện P, tỉnh Bình Định nhưng bà Ú
từ chối làm việc với Tòa án nên không có lời khai.
Tại các biên bản về việc người được cấp, tống đạt, thông báo từ chối nhận văn
bản tố tụng cùng ngày 26/5/2025 của Văn phòng T4 thể hiện: Ông Minh T
ông Minh N1 từ chối nhận Quyết định hoãn phiên tòa số: 06/2025/QĐST-DS
ngày 25/5/2025 với lý do “không biết, không liên quan”.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 19/12/2022 và tại phiên tòa, bà Huỳnh Thị Ngọc
L trình bày: khẳng định đất tranh chấp là của vợ chồng khai hoang sử dụng gia
đình bà Đ đều biết. Ranh giới phần đất tranh chấp được Hội đồng định giá đo tmốc
2 gốc dừa kéo về hướng bkè nhưng gia đình Đ khai ranh giới 2 cây dừa nhưng
lại chỉ lấn qua đất vợ chồng lý. Nay thống nhất yêu cầu đòi đất của ông
Huỳnh Văn D, không bổ sung gì thêm.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Nam phát
biếu ý kiến như sau:
- Những người tiến hành tố tụng thc hiện đúng theo quy định của pháp luật.
- Những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn thực hiện đúng quyền nghĩa vụ
của mình; Bị đơn những người có quyền và nghĩa vụ liên quan phía bị đơn chưa
thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
4
- Về nội dung vụ án: Căn cứ các chứng cứ trong hồ sơ vụ án quá trình
tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy vợ chồng ông Huỳnh Văn D, bà Huỳnh Thị Ngọc L
thống nhất chỉ yêu cầu Bùi Thị Đ cùng các đồng thừa kế của ông Minh T2
(đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất tranh chấp) trả 15m
2
thuộc một phần thửa 91và
một phần thửa 92 tờ bản đồ 27b xã C, các điểm (A, 4, 16, 15,B) diện tích 12m
2
các điểm (B,C,15) diện tích 03m
2
theo trích lục số 515/2024 ngày 17/4/2024 của Văn
phòng Đ1 chi nhánh T3 phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận. Nguyên
đơn tự liên hệ cơ quan có thẩm quyền để thực hiện quyền sử dụng đất theo quy định
của luật đất đai.
- Về chi phí định giá: Vợ chồng ông Huỳnh Văn D, Huỳnh Thị Ngọc L tự
nguyện chịu toàn bsố tiền chi phí định giá và trích lục; về án phí, đề nghị giải quyết
theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hsơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa
và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Người tham gia tố tụng: Ông Võ Minh C, bà Võ Thị Mỹ C1, ông Võ Ngọc
S, bà Võ Lệ T1 có yêu cầu xét xử vắng mặt;Bùi Thị Đ, bà Võ Thị Mỹ N, ông Võ
Minh T, ông Minh N1 đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng đều từ chối
nhận và không có mặt tại phiên tòa; căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ
luật tố tụng dân sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2]. Quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện tranh chấp
đất tại C, huyện T; căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ lut
Tố tụng dân sự, xác định quan hệ pháp luật:“Tranh chấp đòi tài sản quyền sdụng
đất” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thuận Nam.
[3]. Về yêu cầu khởi kiện:
[3.1]. Căn cứ Trích lục s556/2023 ngày 04/5/2023 của Văn phòng Đ1 - chi
nhánh T3, thể hiện: Diện tích đất các đương sự tranh chấp chỉ đo là 20m
2
các
điểm (4, 13, 14, 9, 15, 16) thuộc một phần thửa số 91 và một phần thửa 92 tờ bản đ
27b C. Căn cứ Công văn số: 831/PTNMT-ĐĐ ngày 11/8/2023 (viết tắt: Công văn
831) của Phòng Tài nguyên Môi trường huyện T, xác định:“Diện tích đất 20m
2
thuộc một phần thửa 91 và một phần thửa 92...Theo số mục kê đất đai và bản đồ địa
chính lưu giữ tại thì thửa 91 do ông Huỳnh Văn D đứng quy chủ diện tích 48m
2
thửa 92 quy chủ UBND xã quản lý diện tích 52m
2
...” (Bút lục 79); Công văn số:
931/PTNMT-ĐĐ ngày 07/9/2023 (viết tắt: Công văn 931) của Phòng Tài nguyên và
Môi trường huyện T, xác định “...Diện tích 5m
2
thuộc một phần thửa 92 quy chủ cho
UBND quản do thời điểm người sử dụng đất không khai nên quy chủ tạm
thời. Thực tế tại phần đất 5m
2
này ông Huỳnh Văn D sử dụng từ năm 1994...Đất hiện
không quy hoạch nên người sử dụng được cấp GCN theo quy định...” (Bút lục
82). Với nội dung trả lời trên, căn cứ xác định diện tích 20m
2
nguồn gốc của vợ
chồng ông D, bà L khai hoang, sử dụng thực tế từ năm 1994.
[3.2]. Phía gia đình Đ đều xác nhận vợ chồng ông D thửa đất giáp ranh
đất của phía gia đình Đ. Các bên đều khẳng định ranh giới thửa đất giữa hai bên
là 2 cây dừa do gia đình bà Đ trồng. Tại thời điểm Hội đồng định giá đo đạc, mặc
5
2 cây dừa đã chặt nhưng vẫn còn dấu tích 2 gốc dừa làm căn cứ xác định ranh giới
đất. Phía gia đình Đ xác định diện tích đất gia đình Đ 245m
2
phù hợp Sổ mục
kê xã C cung cấp thể hiện: Thửa đất số 90 tờ bản đồ số 27b quy chủ tên Võ Minh T2
diện tích 245m
2
, phù hợp nội dung Công văn 831. Tuy nhiên, theo kết quả đo đạc tại
Trích lục 556, bà Đ chỉ đo diện tích là 260m
2
(bao gồm 20m
2
tranh chấp), tăng 15m
2
so với diện tích đất của gia đình bà Đ kê khai và nằm trong thửa 91 quy chủ cho ông
D, thửa 92 quy chUBND xã P (nay là C) đều do vợ chồng ông D sử dụng thực
tế từ năm 1994. Tại phiên toà, vợ chồng ông D, L thống nhất trừ cho Đ 5m
2
,
chỉ yêu cầu trả giải quyết 15m
2
các điểm (A, 4, 16, 15, B) diện tích 12m
2
các
điểm (B, C, 15) diện tích 3m
2
thuộc mt phần thửa 91 và một phần thửa 92 tờ bản đồ
27b C; theo hình thể, vtrí đo tại trích lục số 515/2024 ngày 17/4/2024 của n
phòng Đ1 chi nhánh T3 tự nguyện, phù hợp pháp luật; việc thay đổi yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu nên chấp nhận.
[3.3]. Do phía gia đình Đ không hợp tác, không có ý kiến về việc vợ chồng
ông D, L trừ lại cho bà Đ 5m
2
đất nên không xem xét trong vụ án. Diện tích đất
tranh chấp 15m
2
hiện không xác định ai đang trực tiếp quản lý, sử dụng cùng Đ
nên buộc bà Đ và những người trực tiếp quản lý, sử dụng đất cùng bà Đ có nghĩa vụ
giao trả cho vợ chồng ông Huỳnh Văn D, bà Huỳnh Thị Ngọc L.
Ông Huỳnh Văn D, Huỳnh Thị Ngọc L trách nhiệm liên hệ quan
thẩm quyền để đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật về đất đai.
[4]. Về chi phí thẩm định, định giá tài sản: Tổng chi phí định giá tài sản
7.261.350đ do vợ chồng ông Huỳnh Văn D, bà Huỳnh Thị Ngọc L tạm ứng. Căn cứ
điều 165 của Bộ luật tố tụng dân sự, Bùi Thị Đ chịu toàn bộ khoản tiền trên; tuy
nhiên, tại phiên tòa ông D, bà L thống nhất tự nguyện chịu là phù hợp pháp luật nên
không buộc bà Đ phải hoàn trả số tiền trên.
[5]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, điểm đ khoản 1 Điều
12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội yêu cầu miễn án phí của bà i Thị Đ; miễn án toàn bộ pdân sự
thẩm cho bà Đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 9 Điều 26, khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 165,
khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 26,
31, 129 khoản 1 Điều 132 Luật Đất đai 2024; điểm đ khoản 2 Điều 12 Nghị quyết
số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Chấp nhận yêu cầu của ông Huỳnh Văn D về tranh chấp đòi quyền sử dụng đất;
buộc Bùi Thị Đ những người đang trực tiếp quản lý, sử dụng đất cùng Đ
giao trả lại diện tích đất 15m
2
gồm: Diện tích 12m
2
các điểm (A, 4, 16, 15, B) thuộc
một phần thửa 91 và diện tích 3m
2
có các điểm (B, C, 15) thuộc một phần thửa 92 tờ
bản đồ số 27b xã C; theo trích lục bản đồ địa chính số 515/2024 ngày 17/4/2024 của
Văn phòng Đ1 chi nhánh T3 (có trích lục kèm theo).
Ông Huỳnh Văn D, Huỳnh Thị Ngọc L trách nhiệm liên hệ quan
6
thẩm quyền để đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật về đất đai.
Về chi phí định giá tài sản: Vợ chồng ông Huỳnh Văn D, Huỳnh Thị Ngọc
L tự nguyện chịu toàn bộ số tiền chi phí định giá trích lục 7.261.350đ đã tạm ứng.
Về án phí: Bùi Thị Đ được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.
Ông Huỳnh Văn D không phải chiu án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông
Huỳnh Văn D 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp
tại biên lai thu tiền số 0001461 ngày 18/10/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Thuận Nam.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự tngười được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa
thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Về quyền kháng cáo: Nguyên, bđơn, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
mặt tại phiên tòa quyền kháng o bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
tuyên án (12/6/2025). Người vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Ninh Thuận;
- VKSND huyện Thuận Nam;
- Chi cục THADS huyện Thuận Nam;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Nguyễn Thị Thức
Tải về
Bản án số 09/2025/DS-ST. Bản án số 09/2025/DS-ST.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 09/2025/DS-ST. Bản án số 09/2025/DS-ST.

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất