Bản án số 95/2024/DS-PT ngày 15/08/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 95/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 95/2024/DS-PT ngày 15/08/2024 của TAND tỉnh Quảng Nam về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Nam
Số hiệu: 95/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 15/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Văn Ngh
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: /2024/DS-PT.
Ngày: 15/8/2024.
V/v Tranh chấp quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền trên đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Võ Thị Minh Phượng.
Ông Nguyễn Văn Dũng.
Ông Nguyễn Hữu Thịnh.
- Thư phiên tòa: Trần Thị Mẫn - Thư Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam: Trần Thị Thanh
Bắc - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 15 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 37/2024/TLPT-DS ngày 02 tháng 6
năm 2024 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền
trên đất”
Do Bản án dân sự thẩm số: /2023/DS-ST ngày 29 tháng 8 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xphúc thẩm số: 05B/2024/QĐXXPT-
DS ngày 08 tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Ng, sinh năm: 1965; T tại: Tổ 16, thôn Q,
B, huyện Thăng Bình. Có mặt.
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Văn
Đ, sinh năm: 1957. Trú tại: Khu phố 6, thị trấn H, huyện Th, tỉnh Quảng Nam.
Luật sư văn phòng Luật sư H thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm: 1970.
Trú tại: Tổ 16, thôn Qu, xã B, huyện Thăng Bình. Có mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Đặng Ngọc Th, sinh năm
1983; Trú tại: thôn Qu, xã B, huyện Thăng Bình. Có mặt.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. UBND xã B, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Đại diện theo pháp luật ông Đặng Tấn D Chủ tịch UBND xã Bình Quý.
Ủy quyền cho ông Nguyễn Quốc A Công chức địa chính xây dựng theo
văn bản số: 62/UBND-VP ngày 09/4/2024. Có mặt.
2. Bà Huỳnh ThTh, sinh năm: 1969. mặt.
3. Bà Mai Thị S, sinh năm: 1971. Có mặt.
Cùng trú tại: Tổ 16, thôn Qu, xã B, huyện Thăng Bình.
- Những người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Anh T, sinh năm: 1961
Trú tại: Tổ 9, thôn Qu, xã B, huyện Thăng Bình, Quảng Nam.
2. Ông Lê Đình L1, sinh năm: 1954
2
Trú tại: Tổ 16, thôn Qu, xã B, huyện Thăng Bình, Quảng Nam.
3. Ông Nguyễn Ngọc Qu, sinh năm:
Trú tại: Tổ 23, thôn Qu, xã B, huyện Thăng Bình,Quảng Nam.
4. Ông Nguyễn Hữu Tr, sinh năm: 1956
Trú tại: Tổ 15, thôn Qu, xã Bình Quý, huyện Thăng Bình, Quảng Nam.
5. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1962.
6. Ông Võ Tấn H1, sinh năm: 1962
7. Bà Nguyễn Thị Tr1, sinh năm: 1967.
Cùng trú tại: Tổ 16, thôn Qu, xã Bình Quý, huyện Thăng Bình.
4. Người kháng cáo:
- Ông Ông Trần Văn Ng, sinh năm: 1965; Địa chỉ: Tổ 16, thôn Qu,
Bình Quý, huyện Thăng Bình.
- Ông Nguyễn Hữu L, sinh năm 1970; Địa chỉ: Tổ 16, thôn Qu, Bình
Quý, huyện Thăng Bình.
5. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện kiểm sát nhân dân huyện Thăng Bình,
tỉnh Quảng Nam.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong hồ vụ án tại phiên tòa,
nguyên đơn ông Nguyễn Văn Ng trình bày:
Ông Ng công nhân ti Nghip Sành s huyện Thăng Bình, tnh
Quảng Nam. m 1993, lãnh đạo Nghip Sành s thanh mt s tài sn,
trong đó một căng-tin cũ. Ông Ng mua lại căng-tin này s dng. Đến năm
2002, ông san i trng cây, chăn nuôi gà, trng rau. Gia đình ông đã sinh
sng, s dng ổn định, liên tc trên mảnh đt này t đó đến nay, không tranh
chp vi bt c ai. Đến năm 2003, v chng ông Đ cp 100m
2
đất ti tha s
370, t bản đồ s 21, ti: T 16, thôn Qu, Bình Quý, huyện Thăng Bình, tnh
Qung Nam theo Quyết đnh s 353/QĐ-UB ngày 14/7/2003 ca UBND huyn
Thăng Bình, trên khu vực ông đang sinh sng. Phần đất còn li ông vn tiếp tc
s dng. Năm 2006, ông Nguyễn Hữu L qua nhà ông bảo ông nhổ cây để ông L
làm tường rào nhưng ông không đồng ý. Ngày 16/12/2019 ông L ngang nhiên
đem máy cưa sang cắt cây duối, dâm bụt xung quanh hàng rào của nhà ông.
Chiều ngày 18/01/2020 bà Mai Thị S thuê xe tải đang đổ trụ xi măng, gạch trồng
trụ xi măng trong khu vực vườn nhà ông. Do đó, ông Ng yêu cầu Toà án nhân
dân huyện Thăng Bình giải quyết:
- Công nhận tài sản của vợ chồng ông gồm: 1 buồng tắm của căng-tin
còn lại, 1 chuồng gà, 1 cây keo tràm lớn, 1 cây keo tràm nhỏ, 12 cây sầu
đông, 6 cây trâm, 2 cây dương liễu, 1 bụi chuối, 2 cây vùng, 1 cây mít, một cây
bưởi nằm trên thửa đất số 370, tờ bản đồ số 21, diện tích 240m do vchồng tôi
sử dụng ổn định từ năm 2002 đến nay. Giá trị tài sản trị giá 4.000.000 đồng
(Bốn triệu đồng).
- Buộc ông Nguyễn Hữu L Mai Thị S phải tháo dcác trụ xi măng
chuyển hết số gạch ra khỏi khu đất trả lại nguyên trạng khu vườn cho gia
đình ông.
- Hủy biên bản Hội đồng tư vấn xã B về việc đề nghị cấp đất ở 240m
2
cho
ông Nguyễn Hữu L và bà Mai Thị S trong khu vườn của ông đang sử dụng.
3
Tại phiên tòa ông Ng yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất cho vợ
chồng ông và tuyên biên bản của Hội đồng Tư vấn cấp đất xã Bình Qúy vô hiệu.
Tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, bị
đơn ông ông Nguyễn Hữu L trình bày: Ông L thừa nhận năm 1997 ông Ng
mua lại một phòng tập thể của Ngệp Sành sứ Thăng Bình. Đến năm 2003
ông Ng đơn xin đất làm nhà 100m
2
tại thửa đất 370, tờ bản đồ số 21 (tổng
diện tích của thửa đất 10.815m2 là đất xã quản lý). Còn phần ông năm 2002 ông
trồng keo trên diện tích bên ngoài phạm vi đất ông Ng Đ giao. Năm 2006 thì ông
L Đ Hội đồng tư vấn cấp đất cấp diện tích 105 m
2
, cộng thêm đất hành lang
giao thông là 240m
2
tại thửa đất 370, tờ bản đồ 21. Ông làm hồ gửi đến
Phòng Tài nguyên Môi trường huyện Thăng Bình và địa chính cắm mốc bằng
trụ bê tông nhưng do vợ đau ốm nên thủ tục làm giấy phải dừng nhưng vợ chồng
ông vẫn quản thửa đất từ đó đến nay. Năm 2015 ông nói với ông Ng tiếp tục
xin giao đất và xin ông quyết định giao đất của ông để tôi làm hồ sơ xin cấp đất.
Năm 2019 ông tiếp tục xin cấp đất khi công ty lên đo vẽ ông Ng đã tiếp
giáp Đ Hội đồng vấn xã Bình Quý thống nhất giao đất trên cho ông. Sau
đó ông trồng trụ theo yêu cầu của địa chính thì gia đình ông Ng ngăn cản, nên
xảy ra tranh chấp. Nếu phần ông Ng Đ nhà nước cấp đất thì ông không có ý kiến
gì, nhưng đất này nhà nước chưa cấp cho ai nên việc ông Ng khởi kiện ông
không đồng ý. Đối với tài sản trên 240m
2
đất cây của ông trồng. n các
tài sản bên ngoài phần 240m
2
đất ông Đ giao, ông không tranh chấp.
- Huỳnh Thị Th thống nhất như ý kiến của ông Ng Luật bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho gia đình bà.
- Bà Mai Thị S thống nhất với lời trình bày của ông L.
-Ông Nguyễn Quốc Anh đại diện theo ủy quyền của UBND Bình Quý
trình bày: Phần đất hiện nay các bên tranh chấp thuộc quyền quản của
UBND xã. Ông Ng và ông L đều chưa Đ cấp giấy chứng nhận.
Với nội dung vụ án như trên, tại Bản án dân sự thẩm số 33/2024/DS-
ST ngày 12/4/2024 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam đã
căn cứ khoản 2 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 144; Điều 146; Điều 157; Điều 165; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015; Căn cứ các Điều 8; Điều 159; Điều 160; Điều 161; Điều 163,
Điều 164, Điều 165, Điều 169, Điều 221 Điều 222 Bộ luật Dân sự 2015; Căn
cứ Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn
Ng đối với bị đơn ông Nguyễn Hữu L người quyền lợi nghĩa vliên quan
Mai Thị S, về việc: “Tranh chấp quyền sở hữu về tài sản”. Công nhận các tài
sản gồm: 01 chuồng (hết giá trị sử dụng) 04 cây sầu đông đường kính trên
30cm, 02 cây phượng trắng đường kính trên 15cm, 03 cây vừng đường kính từ
10-15cm, 07 cây trâm đường kính từ 15-20cm; 02 cây vú sữa nhỏ, 01 cây dừa
nhỏ, 01 bụi chuối 03 cây nhỏ, 02 cây keo đã ngã chết, 02 gốc keo đã khai
thác, 01 cây sầu đông đã chết 01 cây sầu đông ngã ngọn, 02 cây ổi nhỏ, 01
cây bưởi nằm trên diện tích 217,1m
2
(Kèm theo các mảnh trích đo ngày
27/02/2023; ngày 23/8/2021) tại thửa 370 tờ bản đồ số 21 tại: Tổ 16, thôn Quý
Xuân, Bình Quý, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam (Diện tích đất do
4
UBND xã Bình Quý quản lý) là thuộc quyền sở hữu của của vợ chồng ông Trần
Văn Ng và bà Huỳnh Thị Th.
2. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần
Văn Ng đối với bị đơn ông Nguyễn Hữu L người quyền lợi nghĩa vụ liên
quan bà Mai Thị S, về việc buộc ông Nguyễn Hữu L Mai Thị S phải tháo
dở 04 trụ bê tông và gạch ra khỏi khu vực đất 221,5m
2
tại thửa 370 tờ bản đồ số
21 tại: Tổ 16, thôn Quý Xuân, xã Bình Quý, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng
Nam (Diện tích đất do UBND xã Bình Quý quản lý).
3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn Ng
về việc hủy biên bản họp Hội đồng tư vấn xã Bình Quý ngày 10/8/2006.
Ngoài ra, bản án thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tố tụng, nghĩa
vụ thi hành ánquyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, nguyên đơn ông Trần Văn Ng đơn kháng cáo
mt phn bản án thm, bị đơn Nguyễn Hữu L đơn kháng cáo toàn bộ
bản án thẩm. Viện kiểm sát nhân dân huyện Thăng Bình kháng nghị, đnghị
sửa án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Ng rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với
nội dung hủy biên bản họp Hội đồng tư vấn xã Bình Quý ngày 10/8/2006.
Ti phiên tòa phúc thm, đại din Vin kim sát nhân dân tnh Qung
Nam phát biu ý kiến:
- Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án dân sự ở giai
đoạn phúc thẩm: Thẩm phán Đ phân công trực tiếp giải quyết vụ án đã thực hiện
đúng các quy định của pháp luật về việc thụ vụ án, về thời hạn giải quyết vụ
án, về việc chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát Ngên cứu để tham gia xét xử.
Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ
tục theo quy định của pháp luật. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền, nghĩa
vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: các đương sự tranh
chấp quyền sử dụng đất đối với 240 m2 tại thửa đất số 370 tờ bản đồ số 21 tại:
Tổ 16, thôn Quý Xuân tranh chấp quyền sở hữu tài sản cây trồng gắn liền
trên đất nhưng Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình đã xác định sai quan hệ pháp
luật tranh chấp, xác định sai quan hệ pháp luật dẫn đến áp dụng pháp luật sai
ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự. đồ kèm theo
biên bản xem xét thẩm định không xác định Đ diện tích đất tranh chấp. Nguyên
đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án giải quyết theo đơn khởi kiện là công nhận quyền
sử dụng đối với thửa đất 240 m
2
tại thửa đất số 370 tờ bản đồ số 21. Bị đơn cũng
cho rằng thửa đất đó hai bên hiện đang tranh chấp. Việc yêu cầu của nguyên
đơn đã Đ Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý nhưng chưa giải quyết. Xét thấy yêu cầu của
nguyên đơn vượt quá phạm vi xét xử phúc thẩm do đó đề nghị HĐXX hủy bản
án sơ thẩm để chuyển cho tòa án nhân dân huyện Thăng Bình xét xử lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã Đ xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng
xét xử phúc thẩm nhận định:
5
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Trần Văn Ng không rút yêu
cầu khởi kiện, giữ nguyên kháng cáo, bị đơn ông Nguyễn Hữu L giữ nguyên
kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận Đ với nhau về việc giải quyết vụ án.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Văn Ng bị đơn ông
Nguyễn Hữu L thì thấy:
[2.1] Về thủ tục tố tụng:
- Việc kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Văn Ng bị đơn ông
Nguyễn Hữu L Đ thụ đúng điều kiện, thủ tục thẩm quyền theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự m 2015 nên kháng cáo là hợp pháp.
- Nguyên đơn là ông Trần Văn Ng khởi kiện yêu cầu yêu cầu Toà án nhân
dân huyện Thăng Bình giải quyết công nhận tài sản của vợ chồng ông gồm: 1
buồng tắm của căng-tin cũ còn lại, 1 chuồng gà, 1 cây keo lá tràm lớn, 1 cây keo
tràm nhỏ, 12 cây sầu đông, 6 cây trâm, 2 cây dương liễu, 1 bụi chuối, 2 cây
vừng, 1 cây mít, một cây bưởi nằm trên thửa đất số 370, tờ bản đồ số 21, diện
tích 240m
2
do vợ chồng ông đã sử dụng ổn định từ năm 2002 đến nay. Buộc ông
Nguyễn Hữu L Mai Thị S phải tháo dỡ các trụ xi măng chuyển hết số
gạch ra khỏi khu đất trả lại nguyên trạng khu vườn cho gia đình ông. Tòa án
nhân dân huyên Thăng Bình đã thụ vụ án Tranh chấp quyền s dụng đất.
Trong suốt quá trình hòa giải cũng như tại phiên tòa thẩm, ông Ng vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện. Đồng thời phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm; ông Ng yêu
cầu Tòa án buộc ông L chuyển tài sản ra khỏi khu đất trả lại khu đất cho gia
đình ông, yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông. Ông
Nguyễn Hữu L cho rằng diện tích đất tranh chấp Đ Hội đồng xét giao đất
Bình Quý giao cho gia đình ông sử dụng tnăm 2006. Như vậy yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn tranh chấp quyền sdụng đất, Tòa án nhân dân huyện
Thăng Bình đã thụ lý vụ án xác định quan hệ pháp luật là Tranh chấp quyền
sử dựng đất”. Tuy nhiên tại Bản án số 33/2024/DS-ST ngày 12/4/2024 của Tòa
án nhân dân huyện Thăng Bình đã xác định quan hpháp luật “tranh chấp
quyền sở hữu về tài sảnchỉ công nhận tài sản trên đất (gồm 01 chuồng
hết giá trị sử dụng, 04 cây sầu đông đường kính trên 30cm, 02 cây phượng trắng
đường kính trên 15cm, 03 cây vừng đường kính từ 10-15cm, 07 cây trâm đường
kính từ 15-20cm; 02 cây sữa nhỏ, 01 cây dừa nhỏ, 01 bụi chuối có 03 cây
nhỏ, 02 cây keo đã ngã chết, 02 gốc keo đã khai thác, 01 cây sầu đông đã chết
01 cây sầu đông ngã ngọn, 02 cây ổi nhỏ, 01 cây bưởi) cho nguyên đơn
không giải quyết đầy đủ các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tại phiên tòa
phúc thẩm, các đương sự đều trình bày tranh chấp giữa hai bên tranh chấp
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất.
Về thủ tục xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp sơ thẩm tại biên bản
xem xét thẩm định tại chỗ ngày thể hiện diện tích đất tranh chấp do các bên
đương sự xác định. Tuy nhiên tại Mảnh trích đo địa chính ngày 27/02/2023 của
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai Thăng Bình kèm theo biên bản xem xét
thẩm định tại chỗ không chú thích phần đất tranh chấp nằm ở vị trí nào, diện tích
tích đất là bao nhiêu. Tòa án cấp thẩm cũng không yêu cầu đơn vị đo đạc xác
định vị trí diện tích đất tranh chấp trên sơ đồ thửa đất để làm sở giải quyết
vụ án. Tại phần quyết định của bản án thẩm, diện tích đất tài sản tranh
chấp Đ xác định là 217,1m
2
, có lúc lại xác định là 221,5m
2
.
6
- Đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy biên bản Hội đồng vấn
xã Bình Quý về việc đề nghị cấp đất ở 240m
2
cho ông Nguyễn Hữu L và bà Mai
Thị S: biên bản Hội đồng vấn Bình Quý không phải quyết định biệt,
không phải là giao dịch dân sự nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý giải quyết và
tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không đúng quy
định của pháp luật. Tại phiên tòa ông Ng rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc
hủy biên bản họp hội đồng vấn sợ mình quý rút kháng cáo đối với nội
dung này ông Nguyễn hữu L đồng ý với yêu cầu của ông Ng, đề nghị Tòa án cấp
sơ thẩm thẩm xử lý theo quy định của pháp luật.
Từ các nhận định trên, Hội đồng xét xử kết luận: việc Tòa án cấp sơ thẩm
không giải quyết đầy đủ các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là vi phạm Ngêm
trọng thủ tục tố tụng làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của các
đương sự trong phạm vi xét xử phúc thẩm HĐXX không thể khắc phục Đ,
thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 310 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015, nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn Ng, kháng
cáo ông Nguyễn Hữu L chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Thăng Bình, áp dụng khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số: 33/2024/DS ST ngày 12 tháng 4 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam, chuyển hồ
vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình giải quyết lại theo thủ tục
thẩm.
Án phí dân sự phúc thẩm: kháng cáo của ông Trần Văn Ng và ông
Nguyễn Hữu L Đ chấp nhận nên ông Ng và ông L không phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 3 Điều 308 và Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Văn Ng, bị đơn ông
Nguyễn Hữu L chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
huyện Thăng Bình, hủy toàn bộ Bản án thẩm số: 33/2024/DS ST ngày 12
tháng 4 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam,
chuyển hồ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình giải quyết lại theo
thủ tục sơ thẩm.
Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Văn Ng và ông Nguyễn Hữu L không
phải chịu DS-ST. Hoàn lại cho ông Trần Văn Ng số tiền tạm ứng án phí đã nộp
300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí số 8551 ngày
22/4/2024 (bà Huỳnh Thị Th nộp thay) hoàn lại cho ông Nguyễn Hữu L số
tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu
tạm ứng án phí số 8553 ngày 22/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân shuyện
Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Nơi nhận:
- TAND cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- TAND h. Thăng Bình;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
7
- Chi cục THADS Thăng Bình;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Tải về
Bản án số 95/2024/DS-PT Bản án số 95/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 95/2024/DS-PT Bản án số 95/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất