Bản án số 84/2025/DS-PT ngày 16/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 84/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 84/2025/DS-PT ngày 16/04/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Vĩnh Long
Số hiệu: 84/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 16/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Giữ nguyên Bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 84/2025/DS-PT
Ngày: 16 - 4 - 2025
V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Sơn Nữ Phà Ca
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Dũng
Bà Nguyễn Thị Kim Chi
- Thư ký phiên tòa: Cao Ngọc Quí Thư ký của Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long: Đoàn Thị Kim
Tuyền - Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 16 tháng 4 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét
xử phúc thẩm công khai ván thsố: 25/2025/TLPT-DS ngày 12 tháng 02
năm 2025 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số: 94/2024/DS-ST ngày 20 tháng 11 năm
2024 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Vĩnh Long bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 47/2025/QĐ-PT ngày
04 tháng 3 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Văn Thị H; Địa chỉ: TA, ấp Đ, Đ, thị B, tỉnh
Vĩnh Long.
Người bảo về quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bà Văn Thị H: Luật
sư Huỳnh Thị Kiều D Văn phòng L thuộc Đoàn Luật sư Thành phố C.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Trường A; Địa chỉ: Tổ A, ấp Đ, xã Đ, thị xã B, tỉnh
Vĩnh Long.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn anh Nguyễn Trường
A: Luật sư Nguyễn Anh T Văn phòng Luật sư Nguyễn Anh T thuộc Đoàn Luật
2
sư tỉnh V.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Văn N; Địa chỉ: Tổ A, ấp T, Đ, thị xã B, tỉnh Vĩnh
Long.
2. Anh Võ Tấn H1; Địa chỉ: Tổ A, ấp T, xã Đ, thị xã B, tỉnh Vĩnh Long.
3. Anh Nguyễn Khắc H2; Địa chỉ: Tổ A, ấp H, Đ, thị B, tỉnh Vĩnh
Long.
Người làm chứng:
1. Bà Nhan Thị B
2. Bà Nhan Thị K
Cùng địa chỉ: Tổ A, ấp Đ, xã Đ, thị xã B, tỉnh Vĩnh Long.
Người kháng cáo: Nguyên đơn Văn Thị H, bị đơn anh Nguyễn Trường
A.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện ngày 18/7/2024, Đơn khởi kiện bổ sung ngày
26/8/2024 trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Văn Thị H trình
bày:
Văn Thị H anh Nguyễn Trường A (G) mối quan hệ họ hàng nên
H cho anh Nguyễn Trường A vay tiền nhiều lần để nhận hàng buôn bán.
Cụ thể: Ngày 01/6/2019 cho A vay số tiền 40.000.000 đồng; Ngày 01/12/2019
cho A vay s tiền 40.000.000 đồng; Ngày 05/6/2020 cho A vay số tiền
20.000.000 đồng ngày 30/6/2020 cho A vay số tiền 50.000.000 đồng. Tổng
số tiền anh Nguyễn Trường A đã vay 150.000.000 đồng, các lần giao tiền
không biên nhận do chỗ chị em. Quá trình vay tiền của H thì anh A đóng
lãi đầy đủ với lãi suất 1%/tháng cho đến tháng 6/2023 thì không đóng.
Ngày 17/6/2022, anh Nguyễn Trường A qua nhà H vay thêm số tiền
70.000.000 đồng, do bà H trực tiếp đưa cho A nhận bằng tiền mặt, lý do vay tiền
A nói Nguyễn Văn N, sinh năm 1986 vay tiền nên để yêu cầu N tên vào
biên nhận nvới bà H bà H đồng ý. Anh A đã đóng lãi đến hết tháng 6/2023
thì ngưng, mức lãi suất 1%/tháng. Từ lúc vay tiền cho đến nay anh A chưa trả nợ
gốc.
Nay Văn Thị H yêu cầu Toà án giải quyết buộc anh Nguyễn Trường A
3
trả cho bà tổng số tiền nợ gốc 220.000.000 đồng (trong đó, có số tiền 70.000.000
đồng theo biên nhận ngày 17/6/2022 do Nguyễn Văn N ký nhận) và yêu cầu tính
lãi từ ngày 01/7/2023 cho đến ngày xét xử ngày 14/11/2024 với lãi suất
1%/tháng, tạm tính đến tháng 6/2024 = 26.400.000 đồng, tổng vốn lãi
246.400.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Nguyễn Trường A trình bày:
Anh Nguyễn Trường A Văn Thị H mối quan hệ chị em bạn
ruột. Trước đây khoảng năm 2015, anh A mượn tiền của Văn Thị H,
mượn và trả, từ năm 2020 trở về trước thì giao dịch tiền nhưng từ năm
2020 anh đã trả tiền cho bà H hoàn tất, hiện tại không còn nợ tiền bà H. Các mốc
thời gian mượn tiền anh A không nhớ do lâu quá, mượn tiền đóng lãi
đầy đủ và đã trả vốn xong, đến thời điểm này anh không còn nợ tiền bà H. Trước
đây mượn tiền không làm biên nhận nên các lần đóng lãi và trả tiền gốc cũng
không có làm biên nhận với H.
Ngày 17/6/2022, anh Nguyễn Trường A có đến nhà H với anh Nguyễn
Văn N, do anh N nhờ anh A giới thiệu với H để anh N vay số tiền
70.000.000 đồng, tại nH anh N mượn của H số tiền 70.000.000 đồng
với lãi suất 4%/tháng, hai n giao nhận tiền làm biên nhận, việc mượn
tiền giữa anh N với bà H ngày 17/6/2022 anh A không có liên quan, không có ký
vào biên nhận tiền, chngười làm chứng, về tiền lãi do anh N đóng trực tiếp
cho H, lúc nào anh N không thời gian đóng thì gửi tiền nhờ anh A đóng
dùm.
Anh Nguyễn Trường A không đồng ý trả tiền theo yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bà Văn Thị H anh không còn nợ H, sviệc H trình bày
không đúng và số tiền bà H đưa ra không phù hợp, vì bà H yêu cầu lãi
1,8%/tháng sẽ có sự chênh lệch nên mới có việc họp mặt giải quyết tiền hai bên.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
anh Nguyễn Văn N trình bày:
Việc mượn tiền giữa bà Văn Thị H và anh Nguyễn Trường A thì anh N
không biết rõ, anh chỉ biết liên quan đến số tiền 70.000.000 đồng giữa anh A
và bà H trình bày. Ngày 17/6/2022, anh đang ở nhà, thì anh A điện thoại kêu anh
lên nhà H việc, giữa anh A bà H đã ghi sẵn giấy mượn tiền yêu cầu
anh N tên. Anh A người nhận tiền 70.000.000 đồng của H. Việc anh N
ký tên vào biên nhận với nội dung “Tôi có nhận số tiền 70.000.000 đồng” nhưng
thực chất anh N không nhận số tiền 70.000.000 đồng chỉ nhận được s
4
tiền 10.000.000 đồng từ anh A. Khi nhận tiền anh A nói “Sẵn lấy 70.000.000
đồng cho 03 người, tôi, anh A anh H1”, trong khi đó anh H1 nhận
20.000.000 đồng, giao dịch giữa anh A anh H1 thì anh N không chứng kiến
không biết. do anh N không nhận tiền 70.000.000 đồng vào biên
nhận là vì trước đây anh có nợ của anh A số tiền bia (nhưng đã giải quyết xong).
Số tiền 10.000.000 đồng, lãi suất 4%/tháng thì anh N đóng cho anh A
được 01 tháng, từ tháng 8/2022 cho đến nay là anh N không có đóng cho anh A.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
anh Võ Tấn H1 trình bày:
Việc vay, mượn tiền giữa bà Văn Thị Hanh Nguyễn Trường A anh H1
không biết rõ. Đối với stiền 70.000.000 đồng anh cũng không biết. n sự
việc ngày 18/6/2022 anh mượn của anh A số tiền 20.000.000 đồng đúng,
không tính lãi, anh H1 đã trả cho anh A một số tiền, đến thời điểm này chỉ còn
nợ anh A số tiền 1.600.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
anh Nguyễn Khắc H2 trình bày:
Việc mượn tiền giữa anh A với H thì anh H2 không biết rõ, giữa anh
H2 với anh A nợ tiền qua lại tiền chơi số đề. Anh không đồng ý trừ cấn
tiền nợ của anh sang cho mẹ anh H theo đxuất của anh Nguyễn Trường
A.
Tại bản án dân sự thẩm số: 94/2024/DS-ST ngày 20 tháng 11 năm
2024 và Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 378/2025/QĐ-
SCBSBA ngày 17/3/2025 của Tòa án nhân dân thị B, tỉnh Vĩnh Long đã
quyết định:
Căn cứ các Điều 26; Điều 35; Điều 147; Điều 91; Điều 92; Điều 97 Bộ
luật tố tụng dân sự; Các Điều 116; Điều 119; Điều 463; Điều 466; Điều 468;
Điều 469 Bộ luật dân sự; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11 tháng 01 năm
2019 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. Khoản 4 Điều 26 Nghị
quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội; Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Văn Thị H đối
với bị đơn anh Nguyễn Trường A.
Buộc anh Nguyễn Trường A nghĩa vụ trả Văn Thị H tổng số tiền
vốn, lãi tính từ ngày 18/7/2024 đến ngày 18/11/2024 154.980.000
5
đồng. Trong đó, vốn là 150.000.000 đồng, lãi là 4.980.000 đồng.
Kể tngày đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa
thi hành số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi suất chậm thi
hành án, tương ứng với thời gian chưa hành án theo quy định tại Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015.
Không chấp nhận yêu cầu của Văn Thị H đối với số tiền 70.000.000
đồng theo Giấy nhận tiền ngày 17/6/2022.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án pthẩm; nghĩa vụ thi hành án
quyền kháng cáo của đương sự theo luật định.
Ngày 02 tháng 12 năm 2024, bị đơn anh Nguyễn Trường A đơn kháng
cáo với nội dung: Yêu cầu Tán cấp phúc thẩm giải quyết không chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của n Thị H về việc buộc anh A trả cho H số tiền
150.000.000 đồng và lãi; Đề nghị giữ nguyên Bản án sơ thẩm đối với quyết định
về số tiền 70.000.000 đồng.
Ngày 04 tháng 12 năm 2024, nguyên đơn Văn Thị H đơn kháng cáo
với nội dung: Yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm giải quyết buộc bị đơn anh Nguyễn
Trường A phải trả cho bà H các số tiền:
- Số tiền 70.000.000 đồng tiền lãi 1%/tháng từ tháng 6/2023 đến ngày
20/11/2024 (17 tháng) bằng 11.900.000 đồng. Tổng cộng 81.900.000 đồng.
- Phần tiền lãi của số tiền 150.000.000 đồng, yêu cầu tính lãi suất
1%/tháng từ tháng 6/2023 đến ngày 20/11/2024 (17 tháng) bằng 25.500.000
đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Nguyên đơn H rút một phần yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo
đối với bị đơn về việc buộc anh Nguyễn Trường A trả cho bà tổng số tiền nợ gốc
số tiền 70.000.000 đồng tiền lãi 1%/tháng từ tháng 6/2023 đến ngày
20/11/2024 (17 tháng) bằng 11.900.000 đồng theo biên nhận ngày 17/6/2022 do
Nguyễn Văn N nhận. Nguyên đơn rút yêu cầu kháng cáo về việc buộc anh A
trả tiền lãi của số tiền 150.000.000 đồng 1%/tháng từ tháng 6/2023 đến ngày
20/11/2024 (17 tháng) bằng số tiền 25.500.000 đồng.
Bị đơn anh A vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Anh A không đồng ý trả
cho nguyên đơn số tiền 150.000.000 đồng lãi theo yêu cầu nguyên đơn.
năm 2019 khi anh nhận tiền bảo hiểm anh đã trả cho H tiền vốn, lãi xong
nhưng không yêu cầu H nhận. Việc H rút một phần yêu cầu khởi kiện,
6
yêu cầu kháng cáo về việc buộc anh A trả cho tổng số tiền nợ gốc số tiền
70.000.000 đồng theo biên nhận ngày 17/6/2022 do Nguyễn Văn N nhận thì
anh A đồng ý.
Người bảo vquyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Nguyên đơn rút
một phần yêu cầu khởi kiện bị đơn đối với số tiền 70.000.000 đồng lãi phát
sinh bị đơn đồng ý. Đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ
xét xử đối với yêu cầu trên của nguyên đơn. Nguyên đơn rút yêu cầu kháng cáo
về việc yêu cầu tính tiền lãi của số tiền 150.000.000 đồng 1%/tháng từ tháng
6/2023 đến ngày 20/11/2024 (17 tháng) bằng số tiền 25.500.000 đồng. Do đó, đề
nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu trên của nguyên
đơn. Đối với yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh A không đồng ý trả cho nguyên
đơn stiền vốn vay 150.000.000 đồng lãi theo quy định cho rằng đã trả
cho nguyên đơn xong vào năm 2019 nhưng nguyên đơn không thừa nhận. Đề
nghị bác kháng cáo anh A, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn: Đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh A. Sửa bản án thẩm. Số tiền
150.000.000 đồng nguyên đơn khởi kiện nhưng không cung cấp chứng cứ chứng
minh anh A nợ số tiền trên. Thời điểm năm 2020 dịch bệnh Covid diễn biến
phức tạp không có việc anh A vay tiền bà H để sử dụng. Do đó, án sơ thẩm buộc
anh A trả cho bà H tiền vốn 150.000.000 đồng và lãi phát sinh 4.980.000 đồng là
không căn cứ. Nguyên đơn rút một phần yêu cầu khởi kiện bị đơn đối với số
tiền 70.000.000 đồng và lãi phát sinh và bị đơn đồng ý. Đề nghị Hội đồng xét xử
hủy bản án thẩm đình chỉ xét xử đối với u cầu trên của nguyên đơn.
Nguyên đơn t yêu cầu kháng cáo về việc yêu cầu tính tiền lãi của số tiền
150.000.000 đồng 1%/tháng từ tháng 6/2023 đến ngày 20/11/2024 (17 tháng)
bằng số tiền 25.500.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử
phúc thẩm đối với yêu cầu trên của nguyên đơn
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử người
tham gia tố tụng: Tất cả đều tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ
vụ án đến khi xét xử phúc thẩm.
Về việc giải quyết vụ án:
Căn cứ khoản 1, 4 Điều 308, Điều 311, điểm b khoản 1 Điều 299 của Bộ
luật T tụng dân sự 2015; khoản 2 Điều 26, Điều 29 của Nghị quyết
7
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức, thu, miễn,
giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Hủy một phần bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu
khởi kiện của bà Văn Thị H đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Văn
Thị H về việc anh Nguyễn Trường A trả cho số tiền 70.000.000 đồng và lãi
theo quy định pháp luật. Bà H được quyền khởi kiện lại vụ án đối với số tiền
70.000.000 đồng theo thủ tục do Bộ luật tố tụng dân sự.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm yêu cầu kháng cáo của Văn Thị H. Không
chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Trường A. Giữ nguyên Bản án sơ
thẩm số 94/2024/DS-ST ngày 20/11/2024 của Tòa án nhân dân thị B, tỉnh
Vĩnh Long.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Văn Thị H đối
với bị đơn anh Nguyễn Trường A.
Buộc anh Nguyễn Trường A nghĩa vụ trả Văn Thị H tổng số tiền
vốn, lãi tính từ ngày 18/7/2024 đến ngày 18/11/2024 154.980.000 đồng (Một
trăm năm mươi bốn triệu chín trăm tám mươi ngàn đồng). Trong đó, vốn
150.000.000 đồng, lãi là 4.980.000 đồng.
Án phí dân sự phúc thẩm: H chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc
thẩm và anh A phải chịu 300.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn
N, anh Tấn H1, anh Nguyễn Khắc H2 được Toà án triệu tập hợp lđến lần
thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015, Toà án xét xử vắng mặt các đương sự trên.
Tại phiên toà, nguyên đơn Văn Thị H rút một phần yêu cầu khởi kiện
yêu cầu kháng cáo về việc buộc anh Nguyễn Trường A trả cho bà Văn Thị H
số tiền 70.000.000 đồng, lãi theo giấy nhận tiền ngày 17/6/2022 nguyên đơn
rút yêu cầu kháng cáo về việc yêu cầu tính tiền lãi của số tiền 150.000.000 đồng
là 1%/tháng từ tháng 6/2023 đến ngày 20/11/2024 (17 tháng) bằng số tiền
25.500.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối
với yêu cầu trên của nguyên đơn. Bị đơn anh Nguyễn Trường A đồng ý với việc
rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo trên của nguyên đơn.
8
Xét thấy việc rút yêu cầu khởi kiện yêu cầu kháng cáo của H đối
với số tiền 70.000.000 đồng, lãi theo quy định pháp luật hoàn toàn tự nguyện.
Do đó, căn cứ Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Toà án hủy bản án
thẩm đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện trên của nguyên
đơn.
Tại phiên tòa, nguyên đơn rút yêu cầu kháng cáo về việc tính tiền lãi của
số tiền 150.000.000 đồng với yêu cầu tính lãi suất 1%/tháng từ tháng 6/2023 đến
ngày 20/11/2024 (17 tháng) bằng 25.500.000 đồng và đồng ý tính lãi của cấp
thẩm mức lãi suất 0,83%/tháng với số tiền lãi 4.980.000 đồng. Căn cứ khoản
3 Điều 284 Bộ luật tố tụng dân snăm 2015, Tòa án đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với yêu cầu trên của nguyên đơn.
[2] Văn Thị H khởi kiện yêu cầu anh A trả số tiền vay 150.000.000
đồng. Cụ thể các lần vay tiền: Ngày 01/6/2019 vay số tiền 40.000.000 đồng;
Ngày 01/12/2019 vay số tiền 40.000.000 đồng; Ngày 05/6/2020 vay số tiền
20.000.000 đồng ngày 30/6/2020 vay số tiền 50.000.000 đồng, lãi suất hai
bên thỏa thuận 1%/tháng. Theo H trình bày do bà anh A mối quan hệ
họ hàng nên khi cho vay bà không buộc anh A viết biên nhận vay tiền. Quá trình
vay tiền thì anh A đã đóng lãi cho bà H đến tháng 6/2023 thì ngưng cho đến nay
anh A chưa trả vốn vay cho bà. n anh A thừa nhận tại biên bản đối chất
ngày 20/9/2024 (BL 60-62) tại phiên tòa phúc thẩm, anh A cho rằng trước
năm 2013, anh A vay tiền H khoảng 02 - 03 lần, tổng số tiền
150.000.000 đồng. Các lần vay do chị em họ hàng nên H không buộc anh
viết biên nhận vay. Năm 2019 khi lãnh tiền bảo hiểm hội một lần anh đã trả
xong vốn, lãi cho H, khi trả anh không lập biên nhận trả tiền anh A thừa
nhận sau thời điểm năm 2019 anh không có vay mượn khoảng tiền nào khác của
H. Như vậy, anh A thừa nhận vay tiền H 150.000.000 đồng. Căn cứ
Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì đây là tình tiết không phải chứng minh.
Tuy nhiên, về mốc thời gian vay tiền thì hai bên khai không thống nhất
nhau H cho rằng anh A chưa trả vốn, nlãi từ tháng 6/2023 đến nay, còn
anh A cho rằng đã trả xong tiền vốn vay 150.000.000 đồng và lãi phát sinh.
Xét tại Bản tự khai ngày 19/8/2024 (BL 30) anh A cho rằng anh vay
tiền của H nhưng anh A đã hoàn tất trả vốn, lãi cho H bằng cách cấn trừ
qua số tiền anh A vay dùm cho con của H anh Nguyễn Khắc H2 và tại
tường trình ngày 24/3/2025 anh A thừa nhận tại cuộc họp gia đình ngày
03/7/2024, mặt anh A, H hai bên thống nhất anh A trả cho mẹ con H,
9
anh H2 số tiền 167.000.000 đồng và bà H, anh H2 trả cho anh A số tiền
132.000.000 đồng. Sau khi cấn trừ thì anh A còn thiếu H số tiền 35.000.000
đồng. Sau khi thỏa thuận xong bà Nhan Thị B mẹ ruột anh A đã đến nhà bà H
trả cho bà H số tiền 35.000.000 đồng nhưng không lập biên nhận. Tuy nhiên, bà
H, anh H2 không thừa nhận lời trình bày của anh A về nội dung thỏa thuận trừ
cấn nợ và cho rằng số tiền anh H2 nợ anh A không liên quan số tiền anh A nợ bà
H.
Xét lời trình bày của anh A trước sau không thống nhất sự mâu
thuẫn về thời điểm trả số tiền vay 150.000.000 đồng. Anh A cho rằng đến năm
2019 anh đã trả xong số tiền vay 150.000.000 đồng lãi phát sinh. Sau thời
điểm trả anh không vay, mượn hay phát sinh giao dịch khác với H nhưng
tại cuộc họp gia đình ngày 03/7/2024 anh thừa nhận còn nợ bà H, anh H2 số tiền
167.000.000 đồng. sau khi cấn trừ nợ anh H2 con H thì anh còn nợ H
35.000.000 đồng sau đó đã trả xong. Ngoài lời trình bày thì anh A không
cung cấp được chứng cứ chứng minh đã trả xong tiền vốn vay 150.000.000 đồng
và lãi phát sinh cho bà H.
Do đó, anh A kháng cáo cho rằng số tiền 150.000.000 đồng anh vay H
anh đã trả xong không căn cứ chấp nhận. vậy, án sơ thẩm xử buộc anh
A có nghĩa vụ trả cho bà H số tiền vốn vay 150.000.000 đồng là có căn cứ.
[3] Về phần lãi của số tiền vay 150.000.000 đồng Tòa án sơ thẩm áp dụng
mức i suất 0,83%/tháng với số tiền lãi 4.980.000 đồng. Anh A kháng o
không đồng ý trả vốn, lãi nhưng không cung cấp chứng cứ chứng minh đã trả
cho H. Các đương sự đều thừa nhận số tiền trên vay không hợp đồng vay,
không có thoả thuận thời hạn vay. Bà H cho rằng lãi suất vay hai bên thỏa thuận
1%/tháng. Tuy nhiên, anh A cho rằng khi vay số tiền 150.000.000 đồng H
tính lãi suất 4%/tháng. Căn cứ theo Điều 5, 6 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP
ngày 11/02/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tán nhân dân tối cao Tòa án
thẩm áp dụng mức lãi suất 0,83%/tháng với số tiền lãi là 4.980.000 đồng
căn cứ. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh A.
[4] Về án phí:
Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 3.500.000 đồng theo quyết định của
Tòa án cấp thẩm 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Số tiền tạm ứng
án phí dân sự phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 13065 ngày
10/12/2024 và số tiền 6.160.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp
theo biên lai thu số 12815 ngày 18/7/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sthị
10
Bình Minh. Sau khi khấu trừ hoàn trả cho H số tiền tạm ứng án phí
2.660.000 đồng.
Anh Nguyễn Trường A phải chịu số tiền 7.749.000 đồng án phí dân sự
thẩm 300.000 đồng án pdân sự phúc thẩm. Số tiền tạm ứng án phí dân sự
phúc thẩm anh A đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 13057 ngày
06/12/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị Bình Minh sẽ được khấu trừ.
Sau khi khấu trừ buộc anh A nộp số tiền 7.749.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 299; khoản 3 Điều 284; khoản 1, 4 Điều
308; Điều 311 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; khoản 2 Điều 26, khoản 1,4
Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy
định về mức, thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của Văn Thị H.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Nguyễn Trường A. Giữ nguyên
Bản án thẩm số 94/2024/DS-ST ngày 20/11/2024 của Tòa án nhân dân thị xã
B, tỉnh Vĩnh Long.
Áp dụng các Điều 116; Điều 119; Điều 463; Điều 466; Điều 468; Điều
469 Bộ luật dân sự; Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11 tháng 01 năm 2019
của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao. Tuyên xử:
1. Hủy một phần bản án thẩm đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu
cầu khởi kiện của Văn Thị H về việc buộc anh Nguyễn Trường A trả cho
H số tiền 70.000.000 đồng và lãi theo quy định pháp luật. Bà H được quyền khởi
kiện lại vụ án đối với số tiền 70.000.000 đồng theo thủ tục do Bộ luật tố tụng
dân sự quy định.
2. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Văn Thị H
đối với bị đơn anh Nguyễn Trường A.
Buộc anh Nguyễn Trường A nghĩa vụ trả Văn Thị H tổng số tiền
vốn, lãi tính từ ngày 18/7/2024 đến ngày 18/11/2024 154.980.000 đồng (Một
trăm năm mươi bốn triệu chín trăm tám mươi ngàn đồng). Trong đó, vốn
150.000.000 đồng, lãi là 4.980.000 đồng.
Kể tngày đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chưa
thi hành số tiền nêu trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm tiền lãi suất chậm thi
11
hành án, tương ứng với thời gian chưa hành án theo quy định tại Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Án phí:
Văn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm 3.500.000 đồng và 300.000
đồng án phí dân sự phúc thẩm. Số tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp
300.000 đồng theo Biên lai thu số 13065 ngày 10/12/2024 số tiền 6.160.000
đồng tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm đã nộp theo biên lai thu số 12815 ngày
18/7/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã B. Sau khi khấu trừ hoàn trả cho
H số tiền tạm ứng án phí 2.660.000 đồng (Hai triệu sáu trăm sáu mươi
ngàn đồng).
Anh Nguyễn Trường A phải chịu số tiền 7.749.000 đồng án phí dân sự
thẩm 300.000 đồng án pdân sự phúc thẩm. Số tiền tạm ứng án phí dân sự
phúc thẩm anh A đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 13057 ngày
06/12/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự thB sẽ được khấu trừ. Sau khi
khấu trừ buộc anh A nộp số tiền 7.749.000 đồng (Bảy triệu bảy trăm bốn mươi
chín ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sthì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và
9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- CA: 01;
- TACC: 01;
- VKSND TVL: 02;
- TAND TX.B: 01;
- Chi Cục THADS TX.B: 01;
- Đương sự: 05;
- HCTP: 01;
- KTNV: 01;
- Lưu: 04.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Sơn Nữ Phà Ca
Tải về
Bản án số 84/2025/DS-PT Bản án số 84/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 84/2025/DS-PT Bản án số 84/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất