Bản án số 460/2024/DSPT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 460/2024/DSPT

Tên Bản án: Bản án số 460/2024/DSPT ngày 28/11/2024 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng tặng cho tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 460/2024/DSPT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 28/11/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận kháng cáo. Sửa bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số:460/2024/DS-PT
Ngày 28 11 2024
V/v tranh chấp Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Hùng Quang.
Các Thẩm phán: Bà Đinh Cẩm Đào.
Bà Châu Minh Hoàng.
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Trọng Bằng –Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà:
Nguyễn Thị Thúy Hồng – Kiểm sát viên.
Ngày 28 tháng 11 năm 2024. Tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ số: 362/2024/TLPT-DS ngày
08 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất”.
Do bản án dân sthẩm số: 228/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số: 290/2024/-PT ngày
20 tháng10 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Cao Thị M, sinh năm 1949; Địa chỉ: Ấp Ô, K, huyện T,
tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Ấp B, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Cẩm C, sinh năm 1978; địa
chỉ: Ấp B, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau. (Có mặt).
- Bị đơn: Ông N, sinh năm 1973; Địa chỉ: Ấp Ô, K, huyện T, tỉnh
Cà Mau. (Có mặt).
Người đại diện theo y quyền của bị đơn: Ông Tăng Bửu N1, sinh năm
1974.Địa chỉ: Ấp N, xã P, huyện C, tỉnh Cà Mau. (Có mặt)
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho ông N: Luật sư Nguyễn
Văn T, sinh năm 1971- Văn Phòng L, thuộc Đoàn luật sư tỉnh C. Địa chỉ: Khóm A,
thị Trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Đinh Thị K, sinh năm 1975; địa chỉ: Ấp Ô, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau.
(Vắng mặt);
2.Ngân hàng Thương mại Cổ phần P1; địa chỉ: Số D - D L, phường B, quận
2
A, thành phố Hồ Chí Minh;
Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng: Nguyễn Diễm P Chuyên
viên thu hồi nợ; địa chỉ: Số A N, khóm A, phường H, thành phố C, tỉnh Mau.
Văn bản uỷ quyền ngày 01 tháng 7 năm 2024. (Xin vắng mặt);
3. Đông N2, sinh năm 1997; địa chỉ: Ấp Ô, xã K, huyện T, tỉnh
Mau. (Vắng mặt);
4. Bảo Y, sinh năm 2001; địa chỉ: Ấp Ô, xã K, huyện T, tỉnh Mau.
(Vắng mặt);
5. Ông Nhựt D, sinh năm 2011; địa chỉ: Ấp Ô, K, huyện T, tỉnh
Mau.
Người đại diện hợp pháp của Võ Nhựt D: Ông Võ Bé N, sinh năm 1973
Đinh Thị K, sinh năm 1975; địa chỉ: Ấp Ô, xã K, huyện T, tỉnh Cà Mau người đại
diện theo pháp luật (cha mẹ của D), (ông N có mặt, bà K vắng mặt).
- Người kháng cáo: Ông Võ Bé N là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 29 tháng 6 năm 2023 tại phiên tòa, người đại
diện hợp pháp của nguyên đơn bà Võ Cẩm C1 trình bày:
Cao Thị M được cấp giấy chứng quyền sử dụng đất ngày 20 tháng 01 năm
1995 với diện tích 8.300m
2
tại ấp Ông B, xã K, huyện T. quá trình sử dụng
chuyển nhượng một phần. Phần còn lại diện tích theo đo đạt thực tế 4.720m
2
.
Năm 2021 bà M có làm thủ tục tặng cho con trai ông Võ Bé N toàn bộ diện tích
trên. Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 04 tháng 11 năm 2021 chứng
thực, ông N đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất canh tác cho đến
nay. M tặng cho đất cho ông N hợp pháp nhưng với điều kiện ông N phải
trách nhiệm phụng dưỡng M cho đến khi M chết. Tuy nhiên, sau khi cho
đất xong, thời gian gần đây M bị vợ chồng ông N ngược đãi, không chăm sóc,
hiện M đã không còn chung với ông N từ tháng 7 năm 2023 cho đến nay. Do
ông N đã vi phạm nghĩa vụ của tặng cho đất điều kiện nên yêu cầu huỷ bỏ hợp
đồng tặng cho nêu trên, ông N nghĩa vụ trả lại toàn bộ phần diện tích đất tặng
cho theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông N 2021.
Tại phiên toà, người đại diện theo ủy quyền của M xác định chỉ yêu cầu
ông N, K trả lại giá trị phần đất diện tích 4.720m
2
. thống nhất tiếp tục
duy trì tài sản thế chấp để thi hành nghĩa vụ đối với khoản vay ông N, K đã
vay tiền của Ngân hàng P1 nên bà yêu cầu ông N bà K có trách nhiệm trả cho bà M
về giá trị phần đất với số tiền là 01 tỷ đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa, M rút lại toàn bộ yêu cầu về việc buộc ông N, K trả 10 chỉ vàng
24K và 4.500.000 đồng.
* Bị đơn ông Bé N trình bày: Ông thống nhất với C về thông tin phần
đất, ông được bà M tặng cho toàn bộ phần đất của bà M với diện tích đo đạt thực tế
là 4.720m
2
tại ấp Ông B, xã K, thuộc thửa số 346, tờ bản đồ số 04 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DD768521 do Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày
30/11/2021. Phần đất này ông trực tiếp canh tác từ trước đến nay. Ông người
trực tiếp nuôi dưỡng M, thời gian khoảng tháng 7 năm 2023 đến nay không
3
do vì sao bà M được các chị em của ông đón về nhà chăm sóc nên không còn
chung sống với ông. Ông xác định, do ông không hành vi ngược đãi, xúc phạm
M cũng như không vi phạm nghĩa vụ chăm sóc M nên không đồng ý theo
yêu cầu huỷ hợp Hợp đồng tặng cho quyền sdụng đất ngày 04 tháng 11 năm
2021của bà M với ông và trả đất cho bà M như bà yêu cầu.
* Đại diện Ngân hàng ông Đỗ Đình B1 trình bày:Ngày 19/01/2022 ông
N và Đinh Thị K đã kết Hợp đồng tín dụng số 0031/2022/HĐTD-OCB-
CN và khế ước nhận n số 0031.03/2022/KUNN-OCB-CN ngày 27/12/2022 để
vay ngân hàng TMCP P1, chi nhánh C2 số tiền là 400.000.000 đồng, thời hạn vay
06 tháng, lãi suất 14%/năm cố định trong 03 tháng đầu tiên, lãi suất quá hạn bằng
150% lãi suất trong hạn, mục đích vay phục vụ mua bán lúa. Ngày 27/10/2022
ngân hàng ông N Đinh Thị K đã kết giấy đề nghị kiêm hợp
đồng mở, sử dụng thẻ Tín dụng dành cho khách hàng nhân với hạn mức
20.000.000 đồng. Để đảm bảo khoản vay, ông N bà K đã ký Hợp đồng thế chấp số
0031/2022/BĐ ngày 19/01/2022 đối với thửa đất số 346, tbản đồ số 04, diện tích
4.774,9m
2
. Tại ấp Ông B, xã K, T, Cà Mau. Đến thời điểm ngày 06/8/2024, ông N
K còn nợ ngân hàng số tiền là 490.798.377 đồng; trong đó gồm nợ vốn
399.799.869 đồng, nợ lãi quá hạn là 90.998.508 đồng.
Ngân hàng yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông N, Đinh
Thị K thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng số tiền như đã nêu trên. Trường
hợp ông N, Đinh Thị K không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng
yêu cầu quan thi hành án dân sự phát mãi tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế
chấp quyền sdụng đất số 0031/2022/BĐ ngày 19/01/2022để thu hồi ntheo quy
định của pháp luật.
* Lời khai trong quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị K trình bày: Thống nhất với trình bày của ông
N; không chấp nhận theo yêu cầu khởi kiện nguyên đơn.
Tại bản án dân sự thẩm số:228/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời:
Tuyên Xử
1. Công nhận cho ông N được quyền sdụng thửa đất số 346, tờ bản
đồ số 4 tọa lạc tại ấp Ông B, xã K, huyện T, tỉnh Mau theo Giấy chứng nhận
quyền sdụng đất, Quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số DD
768521 do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh C cấp ngày30 tháng 11 năm 2021.
2. Buộc ông N trả lại cho Cao Thị M 1.000.000.000 (một tỷ) đồng
tương đương với giá trị quyền sử dụng đất.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án củaCao Thị M cho đến khi thi hành
án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng ông N còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều
357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.
3. Buộc vợ chồng ông Võ Bé N, bà Định Thị K1 trả cho Ngân hàng TMCP P1
số tiền 490.798.377 đồng, trong đó tiền gốc 399.799.869 đồng, tiền lãi quá hạn
90.998.508 đồng.
4
Kể từ ngày 07 tháng 8 năm 2024cho đến khi trả hết nợ, vợ chồng ông
N, bà Đinh Thị K còn phải chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất cam kết
tại hợp đồng tín dụng số 0031/2022/HĐTD-OCB-CNcho đến khi trả hết nợ.
4. Trường hợp vợ chồng ông N, Đinh Thị K không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ thì Ngân hàng TMCP P1 có quyền xử lý tài sản bảo
đảm làquyền sử dụng thửa đất số 346, tờ bản đồ số 4, diện tích 4.774,9 m2 tọa lạc
tại ấp Ô, K, huyện T, tỉnh Mau theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
Quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất sDD 768521 do Sở Tài
Nguyên Môi Trường tỉnh C cấp ngày30 tháng 11 năm 2021 để thu hồi nợ.
Trường hợp tại thời điểm phát mãi có tài sản gắn liền phát sinh thì cũng được xử lý
để ngân hàng thu hồi nợ. Trường hợp phát mãi tài sản thế chấp không đủ để thực
hiện nghĩa vụ trả nợ thì vchồng ông N, Đinh Thị K phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ trả nợ cho đến khi trả hết toàn bộ các khoản ncho Ngân hàng.
Trường hợp vợ chồng ông N, Đinh Thị K thực hiện xong toàn bộ nghĩa
vụ thì Ngân hàng N3 có trách nhiệm trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ông Võ Bé N.
Trường hợp tại thời điểm xử tài sản bảo đảm nếu người khác đang thực
tế sống cùng hoặc đang quản lý sử dụng thì cũng phải có nghĩa vụ thi hành án.
5. Đình chỉ xét xử yêu cầu của Cao Thị M về việc yêu cầu vợ chồng ông
Võ Bé N, bà Đinh Thị K trả lại 10 chỉ vàng 24K và 4.500.000 đồng.
6. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản:
Ông Võ Bé N phải chịu 31.663.000 đồng. Ông N phải hoàn lại số tiền này cho
bà M.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 21/8/2024, ông Võ Bé N đơn kháng cáo yêu cầu sửa toàn bộ bản án
sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và yêu cầu cấp phúc
thẩm giữ nguyên bản án dân sự thẩm của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn
Thời.
Đại diện bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Xác định hợp đồng
tặng cho đúng qui định, ông N không vi phạm nghĩa vụ chăm sóc, bản thân ông
N đã sinh sống trên đất từ nhỏ , hiện nay không chổ nơi sinh sống kha1cne61u
trả cho M số tiền giá trị đất trả nợ Ngân hàng thì bán đất cũng không
có khả năng do đó yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 của
Bộ luật tố tụng dân sự. Sửa bản án thẩm số: 228/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8
năm 2024của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.
5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Xét kháng cáo của ông Võ Bé N còn trong thời hạn luật định.
Nguồn gốc phần đất tặng cho thửa đất số 346, tờ bản đồ số 04 tại ấp Ông B,
K, huyện T, tỉnh Mau là của Cao Thị M. Năm 2021, bà M đã tặng cho
thửa đất này cho con trai ông N. Việc tặng cho được lập thành văn bản
chứng thực. Sau khi được tặng cho, ông N đã được Ủy ban nhân dân huyện T
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DD 768521 ngày 30 tháng 11 năm
2021.
[2] Bà Cao Thị M cho rằng khi lập hợp đồng tặng cho đất, bà có yêu cầu ông
N thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc bà. Mặc ông N không thừa
nhận việc các bên thỏa thuận điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng. Tại hợp đồng
không có ghi rõ việc chăm sóc, nuôi dưỡng nhưng các bên thống nhất, M chung
sống cùng ông N nên việc M cho rằng tặng cho ông N quyền sử dụng đất kèm
theo điều kiện chăm c, nuôi dưỡng căn cứ. Các bên đã thống nhất về điều
kiện tặng cho và điều kiện tặng cho là hợp pháp. Án sơ thẩm xét xử công nhận điều
kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có căn cứ. Theo Án lệ
số 14/2017/ALvề công nhận điều kiện của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
mà điều kiện đó không được ghi trong hợp đồng được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm 2017.
[3] Sau khi tặng cho ông N đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình nhưng từ
năm 2023 đến nay ông N cùng các thành viên gia đình ông, không thực hiện đúng
nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng bà M. Hiện bà M được Cẩm C con gái
M đưa về chung sống với C từ tháng 7 năm 2023 cho đến nay, M cho
ông N không chăm sóc nuôi dưỡng nhưng chưa căn cứ chứng minh,
chỉ những mâu thuẩn nhỏ trong gia đình nên M khởi kiện yêu cầu đòi giá trị
tài sản căn cứ. Mặc M khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho. Tuy
nhiên, như đã phân tích trên thì Hợp đồng tặng cho có hiệu lực pháp luật, phát sinh
quyền nghĩa vụ không thuộc trường hợp phải hủy hợp đồng nên M ch
quyền đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật.
[4] Xét thấy, khi ông N được tặng cho quyền sử dụng đất, ông dùng quyền sử
dụng thửa đất này để thế chấp vay vốn tại Ngân hàng TMCP P1. Hợp đồng thế
chấp được công chứng. vậy, việc thế chấp này ngay tình đúng pháp luật. Để
bảo đảm quyền lợi của Ngân hàng, tiếp tục giao cho ông N được quyền sử dụng đất
buộc ông N thanh toán lại giá trị đất cho M không buộc ông trả lại bằng
hiện vật.
[5] Kết quả xem xét thẩm định tại chỗ cũng như định giá tài sản thể hiện,
M chỉ tặng cho quyền sử dụng đất cho ông N và giá trị quyền sử dụng đất
1.144.200.000 đồng. Tại cấp thẩm C đại diện theo ủy quyền của M yêu
cầu ông N trả gtrị đất số tiền 1.000.000.000 đồng, cấp thẩm chấp nhận
theo yêu cầu của C. Xét thấy vợ chồng ông N đã sinh sống với M tnhỏ
công sức đóng góp xây dựng nhà trên đất, cũng như gìn giữ cải tạo, bồi đắp
6
phần đất sinh sống ổn định lâu dài trên đất cho nên chia mỗi người ½ trị giá đất là
hợp lý. Như vậy 1.144.200.000 đồng/2 mỗi người 572.100.000 đồng. Buộc ông
N trả lại cho M số tiền 572.100.000 đồng.
Các công trình trên đất của vợ chồng ông N, K xây dựng nên tiếp tục
công nhận quyền sử dụng cho vợ chồng ông N, bà K.
[6] Đối với yêu cầu của Ngân hàng TMCP P1 vviệc yêu cầu vợ chồng ông
năm, K trả nợ số tiền 490.798.377 đồng trong đó tiền gốc 399.799.869 đồng,
tiền lãi quá hạn 90.998.508 đồng tính đến ngày 7/8/2024. Do vợ chồng ông N,
K vi phạm nghĩa vụ trả nợ nên căn cứ theo quy định tại các Điều 463, 466 của Bộ
luật dân sự năm 2015, Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng, chấp nhận yêu cầu
của Ngân hàng TMCP P1, buộc vợ chồng ông N, bà K phải trả cho Ngân hàng toàn
bộ số tiền nợ gốc, lãi nêu trên.
[7] Khi vay ông N thế chấp quyền sử dụng và tài sản gắn liền trên đất thuộc
thửa số 346, tờ bản đồ số 4 tại ấp Ô, K, huyện T, tỉnh Mau cho Ngân hàng,
hợp đồng thế chấp hiệu lực pháp luật, các bên phải tuân thủ theo thỏa thuận
trong hợp đồng nên nếu vợ chồng ông N, bà K không trả được nợ thì Ngân hàng có
quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp quyền sử dụng đất tài sản gắn liền
với đất của bên thế chấp đ thu hồi nợ. Trường hợp phát mãi tài sản thế chấp
không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì vợ chồng ông N, K phải tiếp tục thực
hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản khác cho đến khi trả hết toàn bộ các khoản nợ
cho Ngân hàng. Ngân hàng phải trách nhiệm trả lại giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho ông N khi ông N thanh toán xong khoản nợ trên.
[8] Đối với yêu cầu buộc ông N K trả 10 chỉ vàng 24K 4.500.000 đồng.
Trong quá trình giải quyết vụ án bà M rút lại toàn bộ yêu cầu này. Xét thấy việc rút
một phần yêu cầu là hoàn toàn tự nguyện đình chỉ xét xử đối với các yêu cầu này.
[9] Tại tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm
của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời. Đề nghị này phù hợp với các phân
tích trên.
[10] Chi phí tố tụng: Số tiền là 31.663.000 đồng. Do yêu cầu nguyên đơn
được chấp nhận một phần nên M ông N mỗi người phải chịu ½ chi phí tố
tụng 15.831.500 đồng. M đã xuất khoản tiền 31.663.000 đồng, nên buộc ông
N phải hoàn trả cho bà M số tiền 15.831.500 đồng.
[11] Về án phí dân sự thẩm ông N phải chịu án phí đối với nghĩa vụ hoàn
trả cho M; Ông N K phải chịu đối với nghĩa vtrả nợ cho Ngân hàng. Bà
M không phải chịu án phí, do người cao tuổi thuộc trường hợp được miễn. Ngân
hàng không phải chịu.
[12] Án phí dân sự phúc thẩm ông N không phải chịu.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
7
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Võ Bé N.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm sơ thẩm số: 288/2024/DS-ST ngày 07 tháng 8 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời.
Tuyên xử:
1. Công nhận cho ông N được quyền sdụng thửa đất số 346, tờ bản
đồ số 4 tọa lạc tại ấp Ông B, xã K, huyện T, tỉnh Mau theo Giấy chứng nhận
quyền sdụng đất, Quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số DD
768521 do Sở Tài Nguyên và Môi Trường tỉnh C cấp ngày 30 tháng 11 năm 2021.
2. Buộc ông N trả lại cho Cao Thị M số tiền 572.100.000 (Năm
trăm bảy mươi hai triệu, một trăm ngàn đồng)
Kể từ ngày Cao Thị M đơn yêu cầu thi hành án ông N,bà Định
Thị K2 thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, nếu không thi hành xong ông Võ Bé
N còn phải chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2
Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
3. Buộc vợ chồng ông Võ Bé N, bà Định Thị K1 trả cho Ngân hàng TMCP P1
tính đến ngày 7/8/2024 vốn lãi 490.798.377 đồng, (Trong đó tiền gốc
399.799.869 đồng, tiền lãi quá hạn 90.998.508 đồng).
Kể từ ngày 07 tháng 8 năm 2024 số tiền trên được tiếp tục tính lãi. Ông
N, Đinh Thị K phải chịu khoản tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất thỏa
thuận tại hợp đồng tín dụng đến khi trả hết nợ.
4. Trường hợp vợ chồng ông N, Đinh Thị K không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ, thì Ngân hàng TMCP P1 quyền yêu cầu
quan thi hành án phát mãi tài sản thế chấp theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, Quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất số DD 768521 do Sở Tài
Nguyên Môi Trường tỉnh C cấp ngày 30 tháng 11 năm 2021 để thu hồi nợ.
Trường hợp tài sản thế chấp không đủ để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì ông
N, bà Đinh Thị K phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản khác cho đến
khi trả hết các khoản nợ cho Ngân hàng. Ngân hàng thương mại cổ phần P1
trách nhiệm trả lại giấy chứng nhận quyền sdụng đất cho ông N, bà Đinh
Thị K khi ông bà thanh toan xong khoản nợ.
5. Đình chỉ xét xử yêu cầu của Cao Thị M về việc yêu cầu vợ chồng ông
Võ Bé N, bà Đinh Thị K trả lại 10 chỉ vàng 24K và 4.500.000 đồng.
6. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ định giá tài sản: 31.663.000 đồng.
M ông N mỗi người chịu ½. Ông N nghĩa vụ hoàn trả cho M số
tiền 15.831.500 đồng.
7. Ván phí dân sự sơ thẩm: Ông N phải chịu 26.884.000 đồng; Vợ
chồng ông N, Đinh Thị K phải chịu 23.631.000 đồng. M không phải
chịu thuộc trường hợp được miễn.
Ngân hàng TMCP P1 không phải nộp, ngày 03 tháng 10 năm 2023 đã dự nộp
tạm ứng án phí số tiền 10.532.000 (mười triệu năm trăm ba mươi hai nghìn) lai thu
tiền số 0007413 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Mau
được nhận lại
8
8. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông N không phải chịu. Ngày 21/8/2024
ông N đã dự nộp tạm ứng số tiền 300.000 đồng (Lai số 0005535) tại Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời. Được nhận lại.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
-Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời;
- Chi cục THADS huyện Trần Văn Thời;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Dương Hùng Quang
Tải về
Bản án số 460/2024/DSPT Bản án số 460/2024/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 460/2024/DSPT Bản án số 460/2024/DSPT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất