Bản án số 82/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 82/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 82/2024/DS-PT ngày 05/09/2024 của TAND tỉnh Hải Dương về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hải Dương
Số hiệu: 82/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Nguyễn Thị Hiền và anh Nguyễn Việt Anh khởi kiện ông Nguyễn Hữu Kỳ tranh chấp thừa kế
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số: 82/2024/DS-PT
Ngày: 05-9-2024
“V/v Tranh chấp về xác nhận di sản
thừa kế và kiện đòi tài sản”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Trần Hữu Hiệu
Các Thẩm phán: Ông Bùi Đăng Huy, bà Phạm Thúy Hằng
- Thư phiên toà: Thị Mai Trang - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Hải Dương.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương tham dự phiên tòa:
Ông Nguyễn Văn Tưởng - Kiểm sát viên.
Ngày 05 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương, xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 28/2024/TLPT-DS ngày 24 tháng
4 năm 2024 về việc “Tranh chấp về xác nhận di sản thừa kế và kiện đòi tài sản”;
do Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2024 của Tòa
án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo; theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 57/2024/QĐ-PT ngày 12 tháng 6 năm 2024,
Quyết định hoãn phiên tòa s69A/2024/QĐ-PT ngày 02/7/2024 Thông báo
thay đổi thời gian xét xử giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1997 và anh Nguyễn Việt A,
sinh năm 1995; địa chỉ: Khu dân cư T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương;
vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Anh Anh S, sinh năm
2002; địa chỉ: Số G, Ngõ B, đường N, phường T, quận C, thành phố Nội;
mặt.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Luật sư Chu Văn
H1 - Công ty L; địa chỉ: Số G, Ngõ B, đường N, phường T, quận C, thành phố Hà
Nội; có mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu K, sinh năm 1955; địa chỉ: Khu dân T,
phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương; có mặt.
3. Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Thị K1, sinh năm
1958; bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1952; Nguyễn Thị S1, sinh năm 1968; đều
2
trú tại: KDC T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Ông Nguyễn Hữu T,
sinh năm 1967; địa chỉ: KDC K, phường A, thị K, tỉnh Hải Dương. Nguyễn
Thị T1, chị Nguyễn Thị H2, chị Nguyễn Thị H3, anh Nguyễn Hữu T2, sinh năm
1984; địa chỉ: KDC H, phường M, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh.
Người đại diện theo ủy quyền của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan: Ông Nguyễn Hữu K.
3. Người kháng cáo: Bị đơn Nguyễn Hữu K
Bản án sơ thẩm không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Anh Việt A chị H con của ông Nguyễn Hữu H4 Nguyễn Thị Đ. Ông
H4Đ kết hôn năm 1994 đến năm 2003 ly hôn theo quyết định của Tòa án.
Anh Việt A và chị H sống cùng bà Đ từ đó cho đến nay. Năm 2017, ông H4 chết
không để lại di chúc. Ngoài hai anh chị, ông H4 không có con riêng và không có
nghĩa vụ với cơ quan, tổ chức, cá nhân nào. Di sản ông H4 để lại gồm: Quyền sử
dụng thửa đất số 352 tờ bản đồ số 2 tại khu dân T, phường Đ, thành phố C,
tỉnh Hải Dương. Trên đất có 01 nhà cấp 4 xây năm 1997. Từ khi ông H4 chết, ông
K anh trai ông H4 đã giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quản lý thửa
đất này không trả lại cho anh Việt A chị H. Vì vậy, anh chyêu cầu Tòa án xác
nhận anh chị quyền thừa kế di sản nêu trên của ông H4, buộc ông K phải trả
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trả lại quyền sdụng thửa đất tài sản
trên đất nêu trên. Hiện trạng đất không đúng như giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cấp cho ông H4, anh Việt A chị H chỉ yêu cầu Tòa án xác nhận buộc
ông K trả lại anh chị diện tích theo đúng hiện trạng đất ông K đang quản
của anh chị.
2. Bị đơn ông Nguyễn Hữu K trình bày: Ông anh trai của ông Nguyễn
Hữu H4. Ông H4 là bố đẻ của anh Việt A và chH. Tkhi ông H4 bà Đ ly hôn,
chị H anh Việt A về sinh sống cùng Đ không quan tâm đến ông H4.
Năm 2001, ông H4 được bố mẹ đẻ ông cho thửa đất số 352 tờ bản đồ số 2 tại khu
dân T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương ông H4 đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2003. Thời gian ông H4 còn sống, ông H4
mắc bệnh và phải điều trị nhiều ngày. Ông H4 còn mang giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất này đi thế chấp lấy tiền tiêu anh em ông phải chuộc về. Khi ông
H4 chết, hai con của ông H4 cũng không về chịu tang. Sau 3 năm, anh Việt A
chị H mới quay về đòi nhà và đất. Nhưng đất này không phải đất của ông H4n
anh chị không quyền đòi lại. Lúc ông H4 chết, ông H4 có nói với anh em trong
nhà về việc để lại đất này là nơi thờ cúng ông H4, sau này cháu nào ngoan thì cho
người đó. Tuy vậy, ông H4 chỉ nói miệng và anh em trong nhà chứng kiến nhưng
không thiết lập văn bản gì. Nay anh Việt A và chH về đòi lại nhà và đất của ông
H4, ông không đồng ý.
3. Người làm chứng Nguyễn Thị Đ trình bày: và ông H4 đã ly hôn
từ năm 2003. Tại thời điểm ly hôn, ông H4 không phân chia tài sản, tự
3
nguyện để lại toàn bộ tài sản cho ông H4 và không yêu cầu ông H4 phải chia trả
chênh lệch tài sản cho bà. Năm 2017, ông H4 bị ốm chết không để lại di chúc. Di
sản ông H4 để lại nhà đất tại thửa số 352 tờ bản đồ số 2 tại khu dân T, phường
Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương, đề nghị xác định tài sản của chH, anh Việt
A, không liên quan đến bà. Thời gian ông H4 còn vợ chồng, cũng
không tôn tạo, tu bổ, sửa chữa tài sản trên đất. Bà đnghị Tòa án không triệu
tập bà tham gia tố tụng trong vụ án này vì bà không còn liên quan gì tới ông H4.
4. Kết quả xác minh với UBND phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương
thể hiện: Nguồn gốc thửa đất số 352 tờ bản đồ số 02 diện tích 220m
2
được UBND
huyện C (nay UBND thành phố C) được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên ông Nguyễn Hữu H4 vào ngày 14/11/2002 trước đây của cụ
Nguyễn Hữu K2 Bùi Thị N. Tại bản đồ đo vẽ năm 1984, thửa đất của cụ K2
cụ N gồm thửa đất số 259 diện tích 316m
2
loại đất thổ cư và thửa đất số 264 diện
tích 119m
2
loại đất màu. Năm 1984, khi đo vẽ diện tích đất này thì ông H4 chưa
kết hôn với Đ và vẫn chung sống cùng ông K2, bà N. Năm 2001, trên bản đồ
địa chính, thửa đất của cụ K2 cụ N được tách làm 2 thửa: Thửa số 351 diện tích
212m
2
loại đất thổ cư, tên chủ sử dụng đất Nguyễn Hữu T3 (tên đúng Nguyễn
Thị T4 - con gái cụ K2 cụ N) thửa đất số 352 diện tích 220m
2
loại đất thổ
mang tên ông Nguyễn Hữu H4. Bản đồ năm 2001 đo vẽ bằng phương pháp thủ
công để phục vụ việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện hồ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng cho ông H4 không còn lưu giữ. Năm 2008, thực
hiện việc đo vẽ bằng phương pháp số hóa để phục vụ việc quản lý đất đai, thửa
đất của ông H4 có số 183, tờ bản đồ số 59 diện tích 169m
2
. Thửa đất của ông H4
sự chênh lệch diện tích từ 220m
2
(bản đồ năm 2001) còn 169m
2
(bản đồ năm
2008) thay đổi về hình thể thửa đất thì địa phương không nắm được. So sánh
bản đồ đo vẽ năm 2001 bản đồ đo vẽ năm 2008, diện tích thửa đất mang tên
Nguyễn Hữu T3 có sự gia tăng về diện tích và hình thể thửa đất. Việc đo vẽ bằng
phương pháp thủ công số hóa cũng sẽ sự chênh lệch về diện tích nhưng
không làm thay đổi hình thể thửa đất. Bản đồ đo vẽ năm 2008 chỉ mang tính chất
tham khảo, không phải căn cứ pháp khi giải quyết tranh chấp. Hiện trạng s
dụng đất không đúng với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp nhưng các
bên đã xây dựng tường bao, có ranh giới và sử dụng n định, lâu dài, không tranh
chấp, nay chỉ thừa nhận diện tích theo hiện trạng đất thì đề nghị Tòa án căn cứ
theo yêu cầu của đương sự và theo quy định của pháp luật để giải quyết.
5. Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Thửa đất số 352
tờ bản đồ số 02, diện tích thực tế 155,7m
2
, đơn giá 5.000.000đồng/1m
2
=
778.500.000đồng. Tài sản trên đất nhà cấp 4, diện tích 47,5m
2
xây dựng từ năm
1997 đến năm đã quá 15 năm, hết khấu hao nên không còn giá trị.
6. Tại Bản án dân sự thẩm số 04/2024/DS-ST ngày 11 tháng 3 năm 2024,
Tòa án nhân dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương quyết định:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Việt
A. Xác nhận quyền sử dụng đất tại thửa 352 tờ bản đồ số 2 tại khu dân T,
phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương diện tích theo hiện trạng 155,7m
2
đất ở
4
di sản thừa kế của ông Nguyễn Hữu H4. Chị Nguyễn Thị H anh Nguyễn Việt
A được hưởng phần di sản thừa kế theo pháp luật. Buộc ông Nguyễn Hữu k phải
trả lại quyền sử dụng đất thửa đất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
tên Nguyễn Hữu H4 cho chị H, anh Việt A.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 18/3/2024, bị đơn Nguyễn Hữu K kháng cáo đề nghị cấp phúc thẩm
sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm Nguyễn Thị B, Nguyễn
Thị S1, bà Nguyễn Thị K1, ông Nguyễn Hữu T (là anh chị em ruột của ông H5),
anh Nguyễn Hữu T2, bà Nguyễn Thị T1, chị Nguyễn Thị H3, chị Nguyễn Thị H2
(là vợ, con ông Nguyễn Hữu C - anh ruột ông H4) do ông Nguyễn Hữu K đại diện
tự nguyện đề nghị Tòa án đưa họ vào tham gia tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm để
tránh kéo dài thời gian giải quyết vụ án trình bày: Trường hợp Tòa án cấp phúc
thẩm xác định tài sản tranh chấp là di sản của ông H4 thì đề nghị Tòa án xem xét
đến công sức của anh chem ruột ông H4 trong việc bảo vệ, quản lý di sản năm
2004 ông H4 mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi cầm cố vay ông M cùng
thôn số tiền 50.000.000đồng, anh chị em ruột của ông H4 đã phải góp tiền vào trả
cho ông M để giữ lại quyền sử dụng đất cho ông H4. Mặt khác, khi ông H4 bị
bệnh, phải đi điều trị tại các bệnh viện, anh em ruột của ông H4 là người trực tiếp
chăm sóc, cứu chữa; khi ông H4 chết, anh chị em ông H4 phải cùng lo ma cho
ông H4, toàn bộ chi phí mai táng, xây mộ, tổ chức lễ 49 ngày, 100 này theo phong
tục địa phương. Cụ thể, yêu cầu xác định công sức quản lý, bảo vệ di sản bằng ½
giá trị quyền sử dụng đất. Phía bị đơn đề nghị được sử dụng toàn bộ quyền sử
dụng thửa đất, đồng ý cùng trả chị H anh Việt A ½ giá trị quyền sử dụng đất
trừ đi 100.000.000đồng (50.000.000đồng chuộc sổ đỏ và 50.000.000đồng lo mai
táng cho ông H4), còn lại trả chị H và anh Việt A 280.000.000đồng.
Tại phiên tòa,
Đại diện theo ủy quyền và người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn trình bày: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không đồng ý
trả tiền công sức quản lý di sản cho phía bị đơn và chi phí mai táng theo yêu cầu
của phía bị đơn. Trước khi nguyên đơn khởi kiện, nguyên đơn có đề nghị phía bị
đơn các khoản chi phí mai táng ông H4 để nguyên đơn trả tiền nhưng phía bị
đơn không thực hiện không yêu cầu. Đề nghị Tòa án không chấp nhận kháng
cáo của phía bị đơn, giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm.
Bị đơn Nguyễn Hữu K giữ nguyên kháng cáo trình bày: Tại cấp thẩm,
anh chị em ruột của ông K đã nêu ra vấn đề anh chị em ông K có công sức trong
việc giữ gìn, bảo vệ tài sản của ông H4chi phí mai táng cho ông H4, nhưng vì
xác định đất của bố mẹ ông H4 nên không yêu cầu phía nguyên đơn trả công
sức. Do Tòa án cấp thẩm xác định đất của ông H4 quyết định giao cho
phía nguyên đơn thì anh chị em ông K yêu cầu tòa án cấp phúc thẩm buộc phía
nguyên đơn phải trả tiền công sức quản lý, bảo vệ giá trị di sản, tiền công chăm
5
sóc ông H4 và tiền chi phí mai táng ông H4 như đã trình bày với Tòa án. Đề nghị
Tòa án chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn. Trường hợp Tòa án xác định
quyền sử dụng đất tài sản của ông H4 thì đề nghị Tòa án giải quyết quyền lợi
của anh chị em ông K một cách hợp lý.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Miễn
án phí dân sự phúc thẩm cho bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng:
Kháng cáo của bị đơn trong thời hạn luật định nên được chấp nhận xem xét
theo trình tự phúc thẩm.
Tại cấp sơ thẩm, bà Nguyễn Thị B, Nguyễn Thị S1, Nguyễn Thị K1
và ông Nguyễn Hữu K đã nêu vấn đề công sức của anh chị em ông H4 trong việc
giữ gìn, bảo vệ quyền sử dụng đất công sức chăm sóc, chi phí mai táng ông
H4. Tuy nhiên do xác định quyền sử dụng đất là của cụ K2 cụ N nên các ông
không yêu cầu chị H và anh Việt A trả các khoản tiền nêu trên. Trong quá trình
chuẩn bị xét xử phúc thẩm bà Nguyễn Thị B, Nguyễn Thị S1, Nguyễn Thị
K1, ông Nguyễn Hữu T (là anh chị em ruột của ông H5), anh Nguyễn Hữu T2,
Nguyễn Thị T1, chị Nguyễn Thị H3, chị Nguyễn Thị H2 (là vợ, con ông Nguyễn
Hữu C - anh ruột ông H4) do ông Nguyễn Hữu K đại diện tự nguyện đề nghị Tòa
án đưa họ vào tham gia tố tụng tại giai đoạn phúc thẩm để tránh kéo dài thời gian
giải quyết vụ án. Do vậy, Tòa án chấp nhận đưa những người trên vào tham gia
tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
[2] Về nội dung:
Nguồn gốc thửa đất số 352, tờ bản đsố 02, diện tích thực tế 155,7m
2
tại
khu dân T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương một phần quyền sử dụng
đất của ông cha để lại cho cụ Nguyễn Hữu K2 và cụ Bùi Thị N. Sau khi các
con lớn của hai cụ là ông K, ông C, bà B, bà S1, bà K1, ông T lần lượt ra ở riêng,
còn ông H4 là con út ở lại cùng bố mẹ. Năm 1994 ông H4 kết hôn với bà Đ. Sau
thời gian sống chung, ông H4 và bà Đ đã được cụ K2 cụ N đồng ý cho xây nhà
riêng, có khuôn vn riêng, có lối đi riêng, có tường bao tách biệt với phần đất
còn lại của cụ K2 cụ N. Năm 2002 ông H4 đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với phần đất trên. Suốt quá trình ông H4 sử dụng đất từ năm 1997
đến khi chết (năm 2017), cụ K2 cụ N chưa bao giờ có ý kiến đòi lại quyền sử
dụng đất trên. Anh chị em ruột của ông H4 cũng chưa bao giờ ý kiến tranh
chấp quyền sử dụng đất này với ông H4. Như vậy, căn cứ xác định thực tế từ
khi ông H4Đ xây nhà ở riêng, cụ K2 cụ N đã cho ông H4 phần quyền sử
dụng đất nêu trên. Bà Đ lời khai xác định tài sản trên chỉ là tài sản của ông H4,
Đ không quyền lợi liên quan đến nhà đất đang tranh chấp. Do vậy, cấp
thẩm xác định quyền sử dụng thửa đất số 352, tờ bản đồ số 02, diện tích thực
tế 155,7m
2
tại khu dân cư T, phường Đ, thành phố C là tài sản của ông H4 là phù
6
hợp. Ông K những người quyền lợi liên quan xác định quyền sử dụng đất
vẫn là của cụ K2 và cN là không có căn cứ chấp nhận.
Ông K và những người có quyền lợi liên quan trình bày trước khi chết ông
H4 có nói với anh chị em là để cho anh chị em quản lý nhà đất làm nơi thờ cúng
của ông H4. Tuy nhiên, ông K và anh chị em không xuất trình được chứng cứ
chứng minh ý chí của ông H4 như trên. Do vậy, xác định ông H4 chết không để
lại di chúc. Toàn bộ quyền sử dụng đất và tài sản trên đất di sản của ông H4
được phân chia theo quy định của pháp luật. Do ông H4 chỉ có chị H và anh Việt
A là thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định anh Việt A
chị H có quyền thừa kế toàn bộ tài sản của ông H4, buộc ông K phải trả lại quyền
sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho anh Việt A chị Hphù
hợp quy định tại các Điều 649, 650 và 651 Bộ luật Dân sự.
Xem xét ý kiến của ông K những người có quyền lợi liên quan về việc
trích trả công sức quản lý, bảo vệ tài sản và chi phí mai táng ông H4:
Các đương sự trong ván đều thừa nhận, khi còn sống ông H4 lạm dụng
rượu bia, sức khỏe yếu. Ông K và những người có quyền lợi liên quan khai thống
nhất năm 2004 ông H4 cầm cố giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay ông M
cùng thôn số tiền 50.000.000đồng. Để giữ đất cho ông H4, K1 anh chị em
ruột cùng góp tiền trả ông M để chuộc lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nội dung lời khai này có xác nhận của ông M nên có căn cứ xác định là đúng. Từ
sau khi ông H4 chết, ông K anh chị em trực tiếp quản di sản thờ cúng ông
H4 nên có công sức trong việc bảo vệ, quản lý di sản.
Do ông H4 sức khỏe yếu, phải đi điều trị tại bệnh viện từ tháng 6/2016 đến
khi chết. Theo quy định tại Điều 111 Luật Hôn nhân gia đình, con đã thành
niên không sống chung cùng với cha mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cha mẹ trong
trường hợp cha mẹ không khả năng lao động không tài sản để tự nuôi
mình. Thực tế anh Việt A chị H không chăm sóc, không cấp dưỡng cho ông
H4 khi ông H4 yếu đau, không thu nhập; toàn bộ chi phí điều trị, việc chăm
sóc ông H4 khi sức khỏe yếu đều do ông K và anh chị em ruột ông H4 thực hiện.
Khi ông H4 chết, ông K và anh chị em ruột ông H4 đứng ra lo mai táng, xây mộ
và chăm sóc phần mộ. Như vậy, bản thân anh Việt A chị H đã thành niên chưa
thực hiện trách nhiệm của người con đối với cha theo quy định của pháp luật cũng
như theo truyền thống đạo đức dân tộc.
Từ những nhận định trên, cần chấp nhận yêu cầu của ông K những người
có quyền lợi liên quan, buộc chị H và anh Việt A phải trả công sức bảo vệ tài sản
di sản, chi pchăm sóc ông H4 khi ốm đau chi phí mai táng ông H4 cho
ông K và những người quyền lợi liên quan. Số tiền chi phí mai táng như ông
K yêu cầu 50.000.000đồng là phù hợp với thực tế chi phí mai táng ở địa phương
(tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn cũng xác định số tiền chi phí mai táng như trên
phù hợp thực tế). Xem xét giá trị 50.000.000đồng K1 anh chị em bỏ ra để
trả nợ thay cho ông H4 nhằm giữ đất từ năm 2004 đến nay. Hội đồng xét xử áng
trích toàn bộ công sức bảo vệ giá trị, quản di sản, chi phí chăm sóc và chi phí
mai táng, xây mộ cho ông H4 buộc anh Việt A và chị H phải trả cho anh chị em
7
ruột của ông H4 bằng 1/3 giá trị quyền sử dụng đất sửa bản án thẩm theo
hướng nêu trên. Khoản tiền trên do ông K đại diện nhận, giữa ông K những
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tự giải quyết, phân chia.
3. Về án phí: Ông K được miễn án phí dân sự phúc thẩm. Do sửa bản án sơ
thẩm nên cần sửa án phí dân sự sơ thẩm cho phù hợp.
4. Các quyết định khác của bản án không kháng cáo, kháng nghị Hội
đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng o
kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
1. Sửa bản án sơ thẩm số 04/2024/DS- ST ngày 11/3/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương như sau:
Căn cứ Điều 166, Điều 612, Điều 649, Điều 650, Điều 651, Điều 357, Điều
468 Bộ luật Dân sự; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản và sử dụng và sử dụng án phí, lệ
phí Tòa án, xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị H Nguyễn
Việt A
Xác nhận quyền sử dụng thửa đất số 352, tờ bản đồ số 02, diện tích hiện
trạng 155,7m
2
tại khu dân T, phường Đ, thành phố C, tỉnh Hải Dương giá trị
778.500.000đồng các tài sản công trình, vật kiến trúc trên đất (không còn
giá trị) di sản của ông Nguyễn Hữu H4. Giao cho chị Nguyễn Thị H anh
Nguyễn Việt A được hưởng toàn bộ di sản nêu trên của ông Nguyễn Hữu H4 (có
đồ kèm theo bản án). Buộc ông Nguyễn Hữu K phải trả lại giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất do UBND huyện C (nay là thành phố C) cấp đối với thửa đất
nêu trên cho chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Việt A.
Buộc chị Nguyễn Thị H anh Nguyễn Việt A phải trả ông Nguyễn Hữu
K những người có quyền lợi liên quan trong vụ án do ông Nguyễn Hữu K đại
diện nhận giá trị công sức bảo vệ giá trị, quản di sản, tiền công sức chăm sóc
ông Nguyễn Hữu H4 tiền chi phí mai táng ông Nguyễn Hữu H4
259.500.000đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí: Miễn án phí dân sự thẩm cho ông Nguyễn Hữu K. Ông
Nguyễn Hữu K không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Buộc chị Nguyễn Thị
H anh Nguyễn Việt A liên đới chịu 12.975.000đồng án phí dân sự thẩm
8
được đối trừ vào số tiền 300.000đồng đã nộp tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo
Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2018/0002998 ngày 30/9/2021
của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Chị H
anh Việt A còn phải liên đới chịu 12.675.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, kháng nghị
Hội đồng xét xử không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng
cáo kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhn:
- VKSND tnh Hải Dương;
- Các đương sự;
- TAND TP. Chí Linh;
- Chi cc THADS TP. Chí Linh;
- Lưu: HS, THS, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN - CH TO PHIÊN T
Trn Hu Hiu
Tải về
Bản án số 82/2024/DS-PT Bản án số 82/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 82/2024/DS-PT Bản án số 82/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất