Bản án số 199/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 199/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 199/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Hậu Giang về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Hậu Giang
Số hiệu: 199/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ] Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận việc tặng cho đất cho ông D1 và ông N thì bà D2 biết và đồng ý. Hiện nay, ông N và ông D1 đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì vậy cần xác định phần đất ông N và ông D1 không còn là tài sản chung của ông B và bà D2. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận toàn bộ diện tích đất cho ông D1, ông N tiếp tục sử dụng, đồng thời buộc ông D1, ông N trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho bà D2 là chưa phù hợp, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông D1, ông N. Do đó, cần chấp nhận nội dung kháng cáo của ông N và ông D1, sửa án sơ thẩm theo hướng không buộc ông N và ông D1 trả giá trị quyền sử dụng đất cho bà D2.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH HẬU GIANG
Bản án số: 199/2024/DS-PT
Ngày: 26 9 - 2024
“V/v Tranh chấp hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất; yêu cầu
chia thừa kế; hợp đồng tín dụng và
hợp đồng hợp tác làm vườn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẬU GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Hồng Thanh
Các Thẩm phán: Bà Võ Thị Phượng
Bà Đào Thị Thủy
- Thư phiên tòa: Giang Thư Tòa án, Tòa án nhân dân tỉnh
Hậu Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang tham gia phiên tòa:
Bà Đặng Kim Quang - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 09, 25 và 26 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Hậu Giang, công khai xét xử phúc thẩm ván thụ số: 32/2024/TLPT-DS
ngày 27 tháng 02 năm 2024, về việc Tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất; yêu cầu chia thừa kế; hợp đồng tín dụng hợp đồng hợp tác làm vườn”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 77/2023/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2023 của Tòa
án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang bị kháng cáo. Theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 100/2024/QĐ-PT ngày 24 tháng 5 năm 2024,
giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Bà Nguyễn Thị D; Trú tại: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà D: Ông Lê Khả Đ (Văn bản ủy quyền
ngày 08/3/2022); Trú tại: Số B, dãy B, đường T, phường H, quận N, thành phố
Cần Thơ. (có mặt)
2. Ông Lê Văn Q; Trú tại: ấp Đ, xã Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang. (có đơn yêu
cầu giải quyết vắng mặt)
- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh S; Trú tại: ấp P, P, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
2
(vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Thị Bích P; Trú tại: ấp P, thị trấn N, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
(có đơn yêu cầu vắng mặt)
2. Bà Nguyễn Thị Mỹ L; Trú tại: ấp P, xã Đ, huyện C, tỉnh Hậu Giang. (có
đơn yêu cầu vắng mt)
3. Nguyễn Thị Quí S1; T tại: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Hậu Giang. (có
đơn yêu cầu vắng mt)
4. Nguyễn Th Tiến T; Trú tại: Số F, tổ G, khu vực Bình Phó A, phường
L, quận B, thành phố Cần Thơ. (có mặt)
5. Ông Nguyễn Thiện N; Trú tại: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Hậu Giang. (có
mặt)
6. Ông Nguyễn Thành D1; Trú tại: ấp P, P, huyện C, tỉnh Hậu Giang.
(có mặt)
7. Bà Trần Thị C; Trú tại: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt)
8. Ngân hàng N2;
Trụ sở chính: Số 2, Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội
Địa chỉ liên hệ: ấp Thị Trấn, thị trấn Ngã Sáu, huyện Châu Thành, tỉnh Hậu
Giang
Người đại diện theo pháp luật: Ông Tiết Văn T1 Tổng Giám đốc Ngân
hàng N2
Người đại diện theo ủy quyền (theo Quyết định số 2965/QĐ-NHNo-PC
ngày 27/12/2019 của Tổng Giám đốc Ngân hàng N2 Giấy ủy quyền ngày
29/7/2022 của Giám đốc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện
N2): Ông Trương Quốc P1 Phó Giám đốc kiêm cán bpháp chế Ngân hàng N2,
chi nhánh huyện C, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt)
- Người kháng cáo: Nguyên đơn Nguyễn Thị D, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Bích P, bà Nguyễn Thị Mỹ L, Nguyễn Thị
Quí S1, bà Nguyễn Thị Tiến T, ông Nguyễn Thành D1, ông Nguyễn Thiện N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, các tài liệu, chứng cứ trong hồ thì nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Nguyên đơn Nguyễn Thị D đại diện theo ủy quyền của D ông
Khả Đ trình bày: Ngày 04/5/1962, bà Nguyễn Thị D kết hôn với ông Nguyễn
Hồng B (chết năm 2012). Vợ chồng D ông B 08 người con gồm:
3
Nguyễn Thị Bích P, Nguyễn Thị Mỹ L, ông Nguyễn Thiện N, ông Nguyễn
Chánh Đ1 (chết còn nhỏ, không vợ con), ông Nguyễn Thành D1, Nguyễn
Thị Quí S1, ông Nguyễn Thanh S, bà Nguyễn Thị Tiến T.
Tài sản của vợ chồng D, ông B gồm có: Quyền sử dụng đất diện tích
16.895m
2
đứng tên ông Nguyễn Hồng B do vợ chồng khai phá từ năm 1975. Năm
2007, ông B chuyển nhượng 4.098m
2
đất cho ông Quách Văn K, diện tích đất còn
lại 12.797m
2
. Nguồn gốc đất do vợ chồng D khai phá, cải tạo đất từ năm
1975 cho đến nay. Trên đất có 01 căn nhà xây dựng năm 2000 và cây trồng do vợ
chồng D trồng. Tài sản đất bà D ý định phân chia cho các con sử dụng,
nhưng ông S không đồng ý vì ông S cho rằng khi ông B còn sống đã giấy tờ
tặng cho đất cho ông S sử dụng. Sau khi trích lục hồ thì D mới biết ông B
đã tặng cho quyền sử dụng đất cho Nguyễn Thanh S làm thủ tục năm 2009 tặng
cho toàn bộ diện tích đất cho ông S.
D yêu cầu: Tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa ông
Nguyễn Hồng B với ông Nguyễn Thanh S vô hiệu. Yêu cầu Tòa án kiến nghị thu
hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Nguyễn Thanh S liên
quan đến phần đất theo hợp đồng tặng cho; Giải quyết phân chia ½ trong số diện
tích 12.797m
2
đất tài sản gắn liền với đất cho bà D được quyền sử dụng theo
quy định của pháp luật. Yêu cầu chia thừa kế phần tài sản của ông B chết để lại.
Tại phiên tòa nguyên đơn yêu cầu chia phần đất theo đo đạc thực tế có diện tích
14.191,9m
2
.
Theo đơn khởi kiện các lời khai của nguyên đơn ông Lê Văn Q trình bày:
Ngày 29/8/2020, ông Q với ông Nguyễn Thanh S hợp tác để cùng làm vườn
chia lợi nhuận với nhau. Hai bên làm giấy tay, nội dung thỏa thuận ông S
giao cho ông Q chăm sóc 8.000m
2
đất để trồng mít. Ông Q chịu trách nhiệm chăm
sóc, đầu cây giống, phân thuốc, tưới nước, giữ vườn và được quyền chuyển đổi
trồng các loại cây ăn trái khác, hoa lợi thu được sẽ chia đều theo tỷ lệ 1:1, đến
ngày 17/4/2029 là hết hạn hợp đồng. Ngày 01/9/2020, ông Q và ông S ký phụ lục
hợp đồng với nội dung ông S sẽ bán 50% hoa lợi trong 04 năm (từ ngày 01/9/2020
đến 01/9/2024) với giá 270.000.000 đồng, ông Q đã trả tiền đủ. Sau ngày
01/9/2024 thì phụ lục hợp đồng hết hiệu lực, hai bên sẽ quay lại chia đều lợi nhuận
1:1 đến năm 2029. Năm 2022, gia đình ông S có tranh chấp nội bộ nên ông S lấy
lại 02 công đất trên tổng s08 công đã thỏa thuận hợp tác. Nay ông Q yêu cầu
ông Nguyễn Thanh S phải bồi thường tiền vi phạm hợp đồng cho ông, bao gồm
các khoản như sau:
- Tiền thuê đất (từ 01/9/2020 đến 01/9/2024) của 02 công đất mà ông S đã
lấy lại: 135.000.000 đồng x 5 lần = 675.000.000 đồng (đây là số tiền bồi thường
hợp đồng 01 thường 05 theo hợp đồng).
- Tiền hoa lợi của 04 năm (t01/9/2024 đến 17/4/2029 hết hợp đồng chia
1:1) của 02 công đất: 80.000.000 đồng/năm (bao gồm: tiền nhân công: 15.000.000
4
đồng/năm, tiền chi phí phân thuốc: 12.000.000 đồng/năm, tiền lợi nhuận bán mít:
53.000.000 đồng/năm). Quy ra 04 năm là 320.000.000 đồng.
Tổng số tiền ông Nguyễn Thanh S phải trả là 995.000.000 đồng. Đối với
phần 06 công đất còn lại trong phần tranh chấp giữa D với ông S, ông Q không
có yêu cầu gì.
Theo đơn phản tố các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, người
đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Nguyễn Thanh S là bà Đinh Ngọc L1 trình
bày: Cha mẹ của ông S ông Nguyễn Hồng B (chết năm 2012) Nguyễn
Thị D 08 người con như người đại diện của bà D trình bày. Lúc còn sống ông
B canh tác phần diện tích đất 16.895m
2
do ông B đứng tên. Nguồn gốc đất này là
do ông nội cho cha là ông B nên tài sản riêng của ông B, nên cấp Giấy chứng
nhận cho cá nhân ông B, không cấp cho hộ, nên ông B có quyền canh tác và định
đoạt tài sản này. Năm 2009, ông B cho đất ông S làm hợp đồng tặng cho quyền
sử dụng đất cho ông S toàn bộ diện tích đất 12.797m
2
(sau khi ông B đã bán mt
phần đất cho ông Quách Văn K vào năm 2008). Ông S canh tác từ năm 2009 trên
diện tích đất này, bà D cũng biết ông Bửu bán đất cho ông K và tặng cho đất cho
ông S nhưng bà D không có ý kiến gì. Đến năm 2016, ông S tách giấy đất cho 2
anh ông Nguyễn Thiện N ông Nguyễn Thành D1, nên ông S còn lại trên
8.000m
2
canh tác đến nay. Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà D.
Giữa ông Q và ông S thỏa thuận hợp tác làm vườn như ông Q trình bày.
Đến đầu năm 2022, ông Nguyễn Thiện N lấy lại 02 công đất nên ông Văn Q
không canh tác được từ đó dẫn đến tranh chấp. Trước đây (không nhớ thời
gian), ông S thđất của ông N với số tiền 35.000.000 đồng trong thời gian 07
năm, khi đó làm hợp đồng bằng giấy tay với nhau, hiện hợp đồng bằng giấy
tay đó đã mất. Sau đó ông N hứa cho ông S tiếp tục thuê đất trong 08 năm, với số
tiền thuê mỗi năm 5.000.000 đồng. Đối với thỏa thuận thuê thêm 08 năm y
thì chưa làm hợp đồng, ông S chưa giao tiền cho ông N và ông N cũng rào đất lại
không cho ông S thuê nữa (do đang tranh chấp về thừa kế). Ông S với ông Q thỏa
thuận hợp tác làm vườn thì ông N biết rất rõ. Ông S không đồng ý yêu cầu bồi
thường thiệt hại của ông Q.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông S có đơn phản tố yêu cầu:
- Phần đất tranh chấp là tài sản riêng của ông B, đã tặng cho ông S và ông
S đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên bà D và các con không
quyền yêu cầu chia. Do có tranh chấp nên ông S yêu cầu ông N và ông D1 trả lại
đất của ông S.
- Nguyên nhân không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng hợp tác làm vườn với
ông Q đối với phần đất của ông N là do ông N lấy lại phần đất mà ông N đã đồng
ý cho ông S thuê. Do vậy, lỗi thuộc về ông N nên nếu ông Q yêu cầu ông S bồi
5
thường bao nhiêu thì ông N trách nhiệm trả cho ông Q, ông S không trách
nhiệm bồi thường.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trình bày:
- Ông Nguyễn Thiện N trình bày: Vào năm 2013, ông cho ông S mượn
phần đất với diện tích 02 công tại thửa s79 đcanh tác, không làm giấy tgì,
sau khi cho mượn thì ông S có trồng mít. Trước khi cho mượn đất cam sành
do ông với cha ông trồng chung trước đó. Cha ông cho đất vào năm 2011 và đến
năm 2016 tiến hành tách thửa thì ông được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Ông S cho ông Q thuê vào năm nào thì ông không biết. Đến năm 2022 thì ông
N biết ông S lấy phần đất của ông hợp tác với ông Q nên ông đã lấy đất lại. Ông
yêu cầu ông Q phải di dời cây mà không m tổn hại đến giá trị đất của ông. Đối
với việc tranh chấp của D ông S ông không yêu cầu gì, nếu được nhận
kỷ phần thừa kế thì ông để lại cho bà D đại diện nhận.
- Ông Nguyễn Thành D1 trình bày: Đối với việc tranh chấp của D
ông S thì ông không có yêu cầu gì, nếu được nhận kỷ phần thừa kế thì ông để lại
cho bà D đại diện nhận.
- Nguyễn Thị Bích P, Nguyễn Thị Mỹ L, bà Nguyễn Thị Quí S1,
Nguyễn Thị Tiến T thống nhất với lời trình bày bà D. Đối với việc tranh chấp của
bà D và ông S thì bà P, bà L, bà S1, bà T không có yêu cầu gì, nếu được nhận kỷ
phần thừa kế thì các đương sự để lại cho bà D đại diện nhận.
- Đại diện Ngân hàng N2 là ông Trương Quc P1 trình bày: Ngày
14/06/2021, ông Nguyễn Thanh S Trần Thị C hợp đồng tín dụng số
7004LAV202101860 với A, Chi nhánh huyện C, tỉnh Hậu Giang để vay
700.000.000 đồng, lãi suất vay: áp dụng theo quy định lãi suất của Ngân hàng N2
tại thời điểm của từng giấy nhận nợ. Mục đích vay là chăm sóc vườn, lãi suất nợ
quá hạn: bằng 150% lãi suất nợ trong hạn, thời hạn duy thạn mức: 36 tháng.
Đến ngày 21/07/2022 ông S và C còn nợ Ngân hàng số tiền tạm tính
772.365.000 đồng. Trong đó: nợ gốc là: 700.000.000 đồng, nợ lãi là: 72.365.000
đồng. Ông S và bà C thế chấp tài sản đảm bảo để vay vốn theo hợp đồng thế chấp
tài sản số 7004LCL202001572 ngày 06/10/2020, tại thửa đất số: 62, 71 và 73, tờ
bản đồ số: 30, đa chỉ thửa đất: ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Hậu Giang, với diện tích:
10.133,9 m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BY234782; BY234783;
BY234784, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: CH02204;
CH02205; CH02206, do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 06/01/2016 do ông
Nguyễn Thanh S đứng tên.
Do phần đất thế chấp phát sinh tranh chấp, Ngân hàng yêu cầu ông S và bà
C phải trả hết số tiền tạm tính đến ngày 10/9/2023 850.732.054 đồng (Trong
đó: nợ gốc là: 700.000.000 đồng, nợ lãi 150.732.054 đồng) toàn bộ số lãi
6
phát sinh cho đến ngày trả tất nợ. Nếu ông S, bà C không trả nợ thì đề nghị xử lý
tài sản thế chấp nêu trên để thu hồi nợ cho Ngân hàng.
Tại Bản án dân sự thẩm số 77/2023/DS-ST ngày 11 tháng 9 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang tuyên xử như sau:
Áp dụng: Án lsố 05/2016/AL ngày 06/4/2016 của Hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao; Điều 130, Điều 131, Điều 133, Điều 213, Điều 323,
Điều 649, Điều 650, 651, Điều 660 của Bộ luật Dân sự; Điều 91, Điều 95 của
Luật Các tổ chức tín dụng; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng
12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn bà Nguyễn Thị D.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện ca nguyên đơn ông Lê Văn Q.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản t của bị đơn Nguyễn Thanh S.
Chấp nhận yêu cầu độc lập của Ngân hàng N2.
Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 17/6/2009 giữa ông Nguyễn
Hồng B với ông Nguyễn Thanh S vô hiệu một phần.
Hợp đồng hợp tác ngày 29/8/2020 giữa ông Văn Q với ông Nguyễn
Thanh S vô hiệu một phần.
Xác định phần đất diện tích 14191,9 m
2
theo Mảnh trích đo địa chính
ngày 01/6/2023 của Công ty TNHH Đ2 tài sản chung của vợ chồng ông Nguyễn
Hồng B và bà Nguyễn Thị D.
Công nhận phn đất có diện tích 10.133,9 m
2
(phần ghi chú (1a), (1b), (2),
(3)) theo Mảnh trích đo địa chính ngày 01/6/2023 của Công ty TNHH Đ2 thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Thanh S. Phần tài sản trên đất (phần
ghi chú (1a), (1b)) thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Thanh S; Phần
tài sản trên đất (phần ghi chú (2), (3)) được thực hiện theo hợp đồng hợp tác giữa
ông Nguyễn Thanh SLê Văn Q.
Công nhận phần đất diện tích 1974,1 m
2
tài sản trên đất (phần ghi
chú (4) theo Mảnh trích đo địa chính ngày 01/6/2023 của Công ty TNHH Đ2 thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Thiện N.
Công nhận phần đất diện tích 2083,9 m
2
tài sản trên đất (phần ghi
chú (5) theo Mảnh trích đo địa chính ngày 01/6/2023 của Công ty TNHH Đ2 thuộc
quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Thành D1.
7
Buộc ông Nguyễn Thanh S phải thanh toán cho Nguyễn Thị D
1.073.912.000 đồng (mt tỷ không trăm bảy mươi ba triệu chín trăm mười hai
ngàn đồng).
Buộc ông Nguyễn Thiện N phải thanh toán cho Nguyễn Thị D
428.379.700 đồng (bốn trăm hai mươi tám triệu ba trăm bảy mươi chín ngàn bảy
trăm đồng).
Buộc ông Nguyễn Thành D1 phải thanh toán cho bà Nguyễn Thị D
452.206.300 đồng (bốn trăm năm mươi hai triệu hai trăm lẻ sáu ngàn ba trăm
đồng).
Buộc ông Nguyễn Thanh S phải thanh toán cho ông Văn Q 67.500.000
đồng (sáu mươi by triệu năm trăm ngàn đồng).
Buộc ông Nguyễn Thiện N phải thanh toán cho ông Lê Văn Q 219.716.632
đồng (hai trăm mười chín triệu bảy trăm mười sáu ngàn sáu trăm ba mươi hai
đồng).
Buộc ông Nguyễn Thanh S Trần Thị C phải trả cho Ngân hàng N2
tổng số tiền 850.732.054 đồng, trong đó nợ gốc 700.000.000 đồng, nợ lãi
150.732.054 đồng.
Trong trường hợp ông Nguyễn Thanh S Trần Thị C không trả hoặc
trả không dứt nợ thì Ngân hàng N2 quyền yêu cầu quan thi hành án xử
tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ theo hợp đồng thế chấp số 7004LCL202001572
được ký kết vào ngày 06/10/2020 giữa bà Trần Th C và ông Nguyễn Thanh S với
Ngân hàng N2.
Ngoài ra, bản án thẩm còn tuyên về lãi chậm thi hành án, lãi theo hợp
đồng tín dụng, án phí, chi phí tố tụng khác và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 20 tháng 9 năm 2023, nguyên đơn Thị D2 người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Bích P, Nguyễn Thị Mỹ L, Nguyễn
Thị Quí S1, Nguyễn Thị Tiến T có đơn kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ thẩm
theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện ca D2. Tại Văn bản ngày 02/7/2024,
D2 yêu cầu:
- Về quyền sử dụng đất: Giải quyết cho D2 được quyền sử dụng
5.186,2m
2
đất CLN (2.062,8m
2
đất CLN tại vị trí (1a); 3.123,4m
2
đất CLN tại vị
trí (2) thuộc thửa đất số 73, tbản đồ số 30) 300m
2
đất ONT tại vị trí (1b) thuộc
thửa đất số 62, tbản đồ số 30. Tổng diện tích là 5.486,2 m
2
. D2 tự nguyện đ
đường đi chung diện ch khoảng 750m
2
đất CLN (chiều rộng 03 mét, chiều dài
khoảng 250 mét) từ đường giao thông công cộng vào đến thửa đất s71, 79, 70
thuộc quyền sử dụng của ông S, ông N, ông D1. Đối với ông S sau khi tặng cho
đất cho ông D1, ông N thì diện tích còn lại chỉ còn 4.647,6 m
2
đất.
8
- D2 không đồng ý nhận giá trị quyền sử dụng đất của ông D1 và ông N
ông S người tặng cho ông D1 ông Nhân q sử dụng đất, đã đăng được
cấp Giấy chứng nhận quyền sdụng đất. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm buộc ông D1
và ông N trả giá trị quyền sử dng đất cho bà là không phù hợp.
- Về nhà ở, vật kiến trúc cây trồng: Yêu cầu ổn định cho tiếp tục sử
dụng căn nhà, vật kiến trúc khác và cây trồng gắn liền với phần đất tại vị trí (1a)
và (1b) và (2).
- Đối với yêu cầu độc lập của Ngân hàng N2: Bản án thẩm chấp nhận
toàn bộ yêu cầu độc lập của Ngân hàng không hợp lý, bởi thửa đất số 62 diện
tích 300m
2
đất ONT phần đất tại vị trí (1a) (1b) nhà công trình xây
dựng thuộc quyền sở hữu của vợ chồng bà và các con. Khi ông S thế chấp để vay
tiền, Ngân hàng không thẩm định tài sản trên đất. Do đó, đề nghị chỉ chấp nhận
một phần yêu cầu độc lập của Ngân hàng, hợp đồng thế chấp bhiệu một
phần.
Văn bản trên chữ thống nhất của các con bao gồm Nguyễn Thành D1,
Nguyễn Thị Bích P, Nguyễn Thiện N, Nguyễn Thị Mỹ L, Nguyễn Thị Quí S1
Nguyễn Thị Tiến T.
Ngày 20/9/2023, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thiện
N có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng:
- Không buộc ông N phải thanh toán cho bà D2 428.379.700 đồng diện
tích đất 1.974,1m
2
do ông S hợp đồng tặng cho ông N hoàn toàn hợp pháp và
nằm trong phần quyền sử dng đất diện tích 7.095,9m
2
của ông Bửu tặng cho ông
S vào năm 2009 không bị vô hiệu;
- Không buộc ông N phải thanh toán cho ông Lê Văn Q 219.716.632 đồng
hợp đồng hợp tác làm vườn ngày 29/8/2020 giữa ông S ông Q trong đó
diện tích 1.974,1 m
2
đất không có sự đồng ý của ông N. Do đó, yêu cầu ông Q di
dời cây trồng đi nơi khác để trả đất cho ông N sử dụng.
Ngày 20/9/2023, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Thành
D1 đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng không buc ông D1
phải thanh toán cho bà D2 số tiền 452.206.300 đồng vì diện tích đất 2.083,9m
2
do
ông S hợp đồng tặng cho ông D1 sử dụng hoàn toàn hợp pháp nằm trong
phần quyền sử dụng đất diện tích 7.095,9m
2
của ông Bửu tặng cho ông S vào năm
2009 không bị vô hiệu
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện nguyên đơn D2 vẫn ginguyên yêu
cầu khởi kiện, yêu cầu kháng o; người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Thành D1, ông Nguyễn Thiện N, bà Nguyễn Thị Tiến T vẫn giữ nguyên
yêu cầu kháng cáo.
Đại diện nguyên đơn là ông Lê Khả Đ trình bày:
9
- Đề nghị xác định phần đất ông S ký hợp đồng tặng cho ông N và ông D1
thuộc phần của ông S được từ cha ông Bửu t cho, không liên quan đến
D2. Còn phần quyền sử dụng đất của D2 ½ quyền sử dụng đất theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do ông B đứng tên.
- Đối với căn nhà: Căn nhà gắn liền với đất tài sản chung của ông B
D2, ông S không có đóng góp công sức gì, chỉ có làm mái che vào năm 2015,
Tòa án cấp sơ thẩm chia thành 03 phần, trong đó ông S được chia 01 phần
không hợp lý.
- Về cây trồng: Đối với những cây trồng nằm ngoài phần đất ông Q đang
quản lý, sử dụng là của ông B và bà D2 trồng, không phải của ông S nên đề nghị
chia tài sản chung và chia thừa kế theo quy định.
- Đối với yêu cầu của Ngân hàng thì đồng ý rút lại, không kháng cáo nữa.
Đề nghị cấp phúc thẩm chia tài sản chung chia thừa kế bằng hiện vật,
hiện nay ông S đã bỏ đi khỏi địa phương nên đề nghị chia cho D2 căn nhà và
phần đất phía trước tại các vị trí (1a), (1b) và (2); còn ông S nhận hiện vật là phần
đất còn lại. Nếu phần hiện vật bà D2 được chia vượt quá giá trị tài sản của bà D2
sau khi chia tài sản chung, chia thừa kế thì D2 đồng ý trả giá trị chênh lệch cho
ông S. D2 đồng ý m lối đi vị trí cặp kênh do Nhà nước quản chiều ngang
3 mét từ lộ công cộng đến hết phần đất vị trí (2) và mở tiếp qua phần đất của ông
D1 với diện tích khoảng 750m
2
để ông S, ông N ông D1 lối đi vào vườn
canh tác và không yêu cầu bồi thường giá trị.
Bà T, ông N, ông D1 trìnhy: Việc ông S hợp đồng tặng cho phần đất
cho ông D1 và ông N thực hiện theo ý nguyện của cha chia đất trước khi chết
theo đồ phân chia ngày 18/5/2009 nhưng bản gốc bị thất lạc chỉ còn bản photo
nộp cho Tòa án. Nhưng do ông S sau khi được đứng tên trong Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã lật lọng, không đồng ý chia cho các anh chị em dành hết
phần đất nên mới phát sinh tranh chấp. Ông D1ông N đề nghị không buộc các
ông trả giá trị quyền sử dụng đất cho bà D2, vì phần đất này ông S đã tự nguyện
tặng cho. Riêng ông D1 yêu cầu không buộc ông phải bồi thường gtrị cây trồng
cho ông Q ông không hợp đồng với ông Q, chỉ cho ông S mượn canh tác,
việc ông S ký hợp đồng hợp tác làm vườn với ông Q không thông qua ý kiến của
ông nên ông không đồng ý bồi thường.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang trình bày quan điểm:
- Về chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán -
Chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa và các đương sự đã thực
hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về việc giải quyết vụ án: Nguồn gốc đất của vợ chồng ông B, D2
trong thời kỳ hôn nhân nên việc định đoạt tài sản này phải ý kiến thống nhất
của vợ chồng. Tuy nhiên, khi ông B còn sống đã ý nguyện tặng cho các con
10
trai gái. Trình bày của ông N ông D1 tại phiên tòa phúc thẩm cũng như ý
kiến của ông S trong quá trình giải quyết vụ án thì ông D1 ông N được cha cho
đất sử dụng từ năm 2009 và đã nhận đất sử dụng; việc ông S hợp đồng tặng
cho ông D1 ông N vào năm 2012 là thực hiện theo ý nguyện của ông B khi còn
sống. Việc này D2 sống chung nhà nên không thể cho rằng không biết, vả
lại D2 cũng đã có ý kiến thống nhất với ý nguyện phân chia của ông B tại
đồ ngày 18/5/2009 nên có giá trị pháp chứng minh phần đất ông S tặng cho ông
D1 ông N không còn tài sản chung của D2 ông B. Tài sản chung chỉ
còn phần đất diện tích 10.133,9m
2
tại vị trí (1a), (1b), (2) (3) đđất tranh
chấp, mỗi người được ½. Bà D2 yêu cầu được nhận hiện vật tại vị trí (1a), (1b) và
(2) có giá trị nhiều hơn giá trị tài sản được chia nên phải thanh toán lại cho ông S.
Đối với căn nhà giá trị 474.585.855 đồng nguồn gốc do vợ chồng ông
B, D2 xây dựng. Ông S thời gian dài chung sống với cha mẹ, quá trình
chung sống có tu bổ, sửa chữa, gìn giữ căn nhà này nên Tòa án cấp sơ thẩm chia
giá trị căn nhà thành 03 phần, theo đó ông B, D2 ông S mi người một phần
với giá trị 158.195.285 đồng sở. Đối với di sản của ông B, do ông B
không để lại di chúc nên được chia theo pháp luật cho D2 và 07 người con; áp
dụng Án lệ số 05/2016/AL chia cho ông S 01 kỷ phần thừa kế nữa được 02
phần; những người con còn lại đồng ý để D2 được nhận kỷ phần thừa kế của
mình nên bà D2 được nhận 07 kỷ phần thừa kế.
Đối với cây trồng tại vị t(1a) (1b) giá trị 111.220.000 đồng, bà
D2 có canh tác cùng ông S nên có căn cứ chia đôi giá trị cây trồng cho ông S
D2.
Ghi nhận sự tự nguyện của D2 đồng ý mở lối đi qua bất động sản liền
kề mà không phải bồi thường giá trị.
Đối với kháng cáo của ông N không đng ý trả giá trị cây trồng cho ông Q.
Xét thấy cây trồng không thể di dời, ông N lấy lại canh tác hưởng hoa lợi nên phải
trách nhiệm trả gtrị lại cho ông Q là phù hợp, vì vậy không chấp nhận kháng
cáo này của ông N.
Đối với kháng cáo của ông D1, ông N không đồng ý trả giá trị cho bà D2
vì đất này ông S đã ký hợp đồng tặng cho. Xét thấy việc ông S ký hợp đồng tặng
cho ông D1 và ông N là thực hiện theo ý nguyện của ông B, có sự đồng ý của bà
D2 nên ông D1 và ông N không phải trả giá trị cho bà D2.
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân
sự, sửa án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án đã được xem xét tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội
đồng xét xử nhận định:
11
[1] Về tố tụng:
[1.1] Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20 tháng 9 năm 2023 nguyên đơn bà
Thị D2 người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Bích P, bà
Nguyễn Thị Mỹ L, Nguyễn Thị Quí S1, Nguyễn Thị Tiến T đơn kháng
cáo đúng quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 nên được xem là hợp lệ và chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Tòa án đã triệu tập hợp lệ các đương sđể tham gia phiên tòa phúc
thẩm được mlần thứ hai, tuy nhiên đối với bị đơn ông S, người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan C, đại diện Ngân hàng N2 vắng mặt không do; đối với
ông Văn Q, Nguyễn Thị Bích P, Nguyễn Thị Quí S1, Nguyễn Thị Mỹ
L vắng mặt đơn yêu cầu vắng mặt. Căn cứ khoản 3, Điều 296 của Bộ luật Tố
tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định tiếp tục xét xử vụ án.
[2] Về nội dung:
[2.1] Giữa bà D2 và ông Nguyễn Hồng B (chết năm 2012) sống chung với
nhau như vợ chồng vào năm 1962, có 08 người con gồm: bà Nguyễn Thị Bích P,
Nguyễn Thị Mỹ L, ông Nguyễn Thiện N, ông Nguyễn Chánh Đ1 (chết còn
nhỏ, không có vợ con), ông Nguyễn Thành D1, Nguyễn Thị Q S1, ông
Nguyễn Thanh S và bà Nguyễn Thị Tiến T. Quá trình chung sng có tạo lập được
phần đất diện tích 16.895m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 002242
do y ban nhân dân huyện C, tỉnh Cần Thơ (cũ), nay là huyện C, tỉnh Hậu Giang
cấp ngày 04/10/1995. Năm 2007, ông B chuyển nhượng cho ông Quách Văn
K phần đất diện ch 4.098m
2
. Diện tích đất còn lại theo Giấy chứng nhận là
12.797m
2
, đo đạc thực tế là 14.191,9m
2
; tài sản gắn liền với đất căn nhà được
ông B, bà D2 xây dựng vào năm 2000 và các cây trồng.
[2.2] Đối với phần đất tranh chấp được Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy
chứng nhận trong thời kỳ hôn nhân giữa ông B và bà D2. Bị đơn ông S cho rằng
đây tài sản riêng của ông B do được cha mẹ của ông Bửu t cho riêng ông B
nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Căn cứ quy định tại Điều 33
của Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014 (Điều 27 của Luật Hôn nhân Gia
đình năm 2000) tinh thần hướng dẫn tại Mục 3 Nghị quyết số 02/2000/NQ-
HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân ti cao hướng
dẫn áp dụng một squy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, đã có đủ
sở kết luận phần đất diện tích 12.797m
2
là tài sản chung của vợ chồng ông B,
D2, trong đó có một phần hai thuộc quyền sử dụng của D2.
[2.3] Năm 2009, ông B ký Hợp đồng tặng cho toàn bộ quyền sử dụng đất
cho bị đơn ông S theo Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban nhân
dân P chứng thực ngày 05/6/2009, bà D2 không ký tên trong Hợp đồng tặng
cho này. Sau khi ông B hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông S, ngày
17/6/2009, ông S được chỉnh lý biến động đứng tên quyền sử dụng đất.
12
[2.4] Ngày 01/8/2012, ông S ký hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho
ông Nguyễn Thành D1 diện tích đất 2.083,9m
2
loại đất LUC ông Nguyễn Thiện
N diện tích 1.971,4m
2
loại đất LUC. Ngày 06/01/2016, ông D1 và ông N được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông S cho rằng việc ông Hợp đồng
tặng cho quyền sử dụng đất cho ông D1, ông N theo ý nguyện của ông B. Tại
phiên tòa phúc thẩm, bà T, ông D1, ông N đều xác định việc ông S hợp đồng
tặng cho ông N ông D1 thực hiện theo ý nguyện của ông B theo đồ lập
ngày 18/5/2009 nhưng cho rằng bản gốc đã thất lạc. Đối với D2, tại phiên tòa
phúc thẩm đại diện theo ủy quyền của D2 cho rằng D2 không biết, không
đồng ý việc ông B định đoạt cho ông N, ông D1. Tuy nhiên, ông N và ông D1 đã
nhận đất sử dụng từ năm 2009, thời điểm này bà D2 vẫn ở chung nhà với ông S,
sử dụng đất liền kề phần đất ông N ông D1 được tặng cho nhưng D2
không ý kiến gì phản đối, tranh chấp. Hơn nữa, căn cứ vào nội dung ý kiến của
D2 ngày 07/11/2021 tại đlập ngày 18/5/2009 (bản phôtô). Ông D1 cho
rằng bản gốc do ông giữ nhưng đã bị thất lạc, tuy nhiên bản phôtô đồ ngày
18/5/2009 ông D1 giao nộp giống với Sơ đồ ngày 18/5/2021 được D2 giao nộp
vào thời điểm tranh chấp tại y ban nhân dân xã P (bút lục 01), phù hợp với đơn
yêu cầu của bà D2 nên có cơ sở chứng minh D2 đồng ý việc tặng cho đất cho
ông D1 và ông N.
[2.5] Do đó, đã đủ sở kết luận việc tặng cho đất cho ông D1 ông
N thì bà D2 biết và đồng ý. Hiện nay, ông N và ông D1 đã được cấp Giấy chứng
nhận quyền sdụng đất, vậy cần xác định phần đất ông N ông D1 không
còn là tài sản chung của ông B và bà D2. Tòa án cấp sơ thẩm công nhận toàn bộ
diện tích đất cho ông D1, ông N tiếp tục sử dụng, đồng thời buộc ông D1, ông N
trả lại giá trị quyền sdụng đất cho D2 chưa phù hợp, ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích hợp pháp của ông D1, ông N. Do đó, cần chấp nhận nội dung kháng cáo
của ông N ông D1, sửa án thẩm theo hướng không buộc ông N ông D1
trả giá trị quyền sử dụng đất cho bà D2.
[2.6] Như vậy, Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 17/6/2009 đối
với diện tích đất còn lại (sau khi trừ phần đất của ông N ông D1) chỉ hiệu
lực một phần đối với phần đất thuộc quyền sử dụng của ông B, vì ông B đã định
đoạt tặng cho ông S hết diện tích đất không được sđồng ý của D2 nên ½ diện
tích đất thuộc quyền sử dụng của bà D2 bị vô hiệu. Do đó, yêu cầu khởi kiện của
D2 được chia ½ quyền sử dụng đất là có căn cứ chấp nhận. Đối với ½ diện tích
đất còn lại thuộc quyền sử dụng của ông S. Tổng giá trị quyền sử dụng đất tại các
vị trí (1a), (1b), (2) và (3) là 2.465.942.300 đồng nên mỗi người được chia quyền
sử dụng đất tương ứng giá trị là 1.232.971.150 đồng.
[2.7] Đối với căn nhà: Theo Biên bản xem xét thẩm định ngày 20/6/2022
thì nhà chính xây dựng năm 2000, nhà phụ xây dựng năm 2008 và các công trình
phụ như hàng rào xây dựng năm 2008, mái che trước, mái che sau xây dựng năm
13
2015, nhà kho xây dựng năm 2010, có tổng giá trị là 474.585.855 đồng. Đại diện
nguyên đơn cho rằng nhà do ông B, D2 xây dựng. Quá trình giải quyết cấp
thẩm, bị đơn cho rằng do ông S xuất tiền ra tu bổ xây cất lại sau khi ông Bửu
c xây thêm công trình phụ. Nhưng nguyên đơn, bị đơn không chứng minh được
các bên đóng góp vào giá trị căn nhà bao nhiêu tiền. Xét thấy, căn nhà được
xây dựng trong thời gian ông B và D2 chung sống với ông S, quá trình ở trong
căn nhà ông S công sức đóng góp trong việc quản lý, xuất tiền để sửa chữa nhà
và xây dựng thêm công trình phụ. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chia căn nhà thành
03 phần bằng nhau, theo đó D2, ông B ông S mỗi người một phần với giá
trị tương đương số tiền 158.195.285 đồng (474.585.855 đồng/3) là có căn cứ.
[2.8] Ông B chỉ tặng cho quyền sdụng đất, không tặng cho căn nhà cho
ông S. Vì vậy, phần di sản của ông B sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất
của ông B. Các đồng thừa kế còn lại ông N, ông D1, P, L, T, S1
không yêu cầu chia thừa kế mà để lại cho bà D2 được nhận. Từ đó, xác định giá
trị căn nhà thuộc sở hữu của ông B chia thành 08 kỷ phần bằng nhau, với gtrị
mỗi kỷ phần 19.774.410 đồng (158.195.285 đồng/8). Về công sức đóng góp,
giữ gìn, làm tăng giá trị căn nhà đã được xem xét chia cho ông S 1/3 giá trị căn
nhà nên việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Án lệ số 05/2016/AL để chia cho ông S
thêm 01 kỷ phần thừa kế của ông B không hợp lý nên cấp phúc thẩm chỉ chấp
nhận chia cho ông S 01 kỷ phần thừa kế của ông B. Theo đó, ông S được chia 01
kỷ phần với giá trị là 19.774.410 đồng, bà D2 được chia 07 kỷ phần với giá trị là
138.420.875 đồng.
[2.9] Đối với cây trồng: Đại diện bà D2 cho rằng cây trồng gắn liền với đất
là do D2ông Bửu t1. Bị đơn ông S cho rằng toàn bộ cây trồng là do ông S
trồng. Tuy nhiên, các đương sự không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Xét
thấy, tại Biên bản xem xét, thẩm định ngày 20/6/2022 thể hiện các cây trồng trên
đất phần đất vị t(1a) (1b) gồm bưởi da xanh, mít thái, nhãn, sầu riêng, ổi,
dừa, mận..., trong đó, một số cây được xếp loại A, một số cây mới trồng sau này
được xếp loại B, C. Tại Biên bản xác minh ngày 19/9/2024 của Tòa án nhân dân
tỉnh Hậu Giang, ông Nguyễn Quốc N1 Trưởng ấp P, P trình bày trước đây
ông B, bà D2 có trồng bưởi, còn ông S có trồng cây hay không thì ông không rõ,
nhưng khi ông S về sống chung với ông B, bà D2 thì ông thấy ông S có canh tác
phần đất vườn này vì khi đó ông B, bà D2 đã lớn tuổi. Điều này phù hợp với thực
tế rằng sau khi ông B chết thì bà D2 cùng chung sống với ông S và cùng canh tác
đất vườn. Do vậy, cần xác định những cây trồng gắn liền với đất thuộc sở hữu
chung của bà D2 ông S. Theo đó, giá trị cây trồng theo Chứng thư thẩm định
giá 111.220.000 đồng, D2 ông S mỗi người được chia ½ với số tiền
55.610.000 đồng.
[2.10] Như vậy, gtrị tài sản D2 được chia 1.232.971.150 đồng +
55.610.000 đồng + 158.195.285 đồng + 138.420.875 đồng = 1.585.197.310 đồng;
14
giá trị tài sản ông S được chia 1.232.971.150 đồng + 55.610.000 đồng +
158.195.285 đồng + 19.774.410 đồng = 1.466.550.845 đồng.
[2.11] Về người nhận hiện vật: Về nguyên tắc khi chia tài sản chung chia
thừa kế phải chia đều bằng hiện vật.
[2.11.1] Đối với căn nhà do D2 tạo lập, ông S chung sống với
D2 từ khi cưới vợ sau là bà C, tuy nhiên vợ chồng ông S đã không ở căn nhà này
từ khi phát sinh tranh chấp cho đến nay mà đi nơi khác để sinh sống, làm ăn. Xét
về tỷ lệ quyền sở hữu đối với căn nhà thì D2 được chia nhiều hơn với số tiền
là 296.616.159 đồng. Vì vậy, cần giao căn nhà cho bà D2 được sở hữu và bà D2
trả giá trị lại cho ông S với số tiền 177.969.695 đồng (474.585.855 đồng
296.616.159 đồng).
[2.11.2] Đối với quyền sử dụng đất: Do giao căn ncho bà D2 được sở
hữu, nên cần thiết chia cho bà D2 phần đất tại vị trí (1a), (1b) cùng cây trồng gắn
liền với đất phần đất tại vị trí (2) cho bà D2 được quyền sở hữu, sử dụng. Theo
Chứng thư thẩm định giá số 261/BĐS ngày 07/9/2023 của Công ty cổ phần T3 thì
giá trị quyền sử dụng đất cây trồng D2 được nhận là: 2.043.197.255 đồng
(771.479.800 + 509.511.600 + 176.400.000 + 111.220.000 +474.585.855). So với
giá trị tài sản được chia là 1.585.197.310 đng, thừa 457.999.945 đồng.
Đối với phần đất tại vị trí (3) do ông S quản lý, sử dụng từ năm 2009, quá
trình sử dụng đến năm 2020 hợp đồng hợp tác làm vườn với ông Q. vậy,
cần giao cho ông S được quyền sử dụng đất đối với phần đất vị trí (3), có giá trị
1.008.550.900 đồng. So với giá trị tài sản được chia 1.466.550.845 đồng, nên
D2 phải trả giá trị chênh lệch cho ông S số tiền là 457.999.945 đồng.
[2.12] Các đương sự không có tranh chấp liên quan đến Hợp đồng hợp tác
làm vườn đối với phần đất tại vị trí (2) và (3) nên Tòa án cấp sơ thẩm không xem
xét, giải quyết là phù hợp. Ghi nhận sự tnguyện của bà D2 đồng ý cho ông S
ông Q tiếp tục thực hiện hợp đồng hợp tác làm vườn đối với phần đất tại vị t(2).
[2.13] Về lối đi, tại Văn bản ngày 02/7/2024 và tại phiên tòa phúc thẩm,
D2 và đại diện D2 tự nguyện mở lối đi qua bất động sản liền kề chiều ngang
3m, vị trí cặp kinh (rạch) do Nhà nước quản lý, đo từ lộ nông thôn đến hết phần
đất vị trí (2), tiếp tục đo qua đến đất của ông D1 để cho ông D1, ông N, ông S có
lối đi vào vườn canh tác với diện tích tạm tính 757m
2
không yêu cầu phải
bồi thường giá trị. Xét ý kiến của bà D2 đại diện của D2 tự nguyện nên
ghi nhận. Theo đó, phần đất bà D2 tự nguyên mở lối đi qua thể hiện tại vị trí (7),
(8) Mảnh tríchđịa chính số 122-2024 ngày 25/9/2024 của Công ty TNHH Đ2
diện tích 756,9m
2
.
[2.14] Đối với kháng cáo của bà D2 đối với yêu cầu độc lập của Ngân hàng
N2. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện D2 rút lại yêu cầu kháng cáo này nên
15
Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo này của
D2.
[2.15] Phần đất tại vị trí (1a) (1b) giao cho bà D2 được nhận hiện vật
vẫn còn nằm trong phạm vi tài sản thế chấp cho Ngân hàng để bảo đảm nghĩa vụ
trả nợ vay. Do Hợp đồng thế chấp hiệu lực toàn bộ, nên trong trường hợp vợ
chồng ông S, bà C không thanh toán hoặc thanh toán không hết nợ thì Ngân hàng
vẫn quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ. Trong trường hợp có phát
mãi, gây thiệt hại cho bà D2 thì D2 có quyền khởi kiện vợ chồng ông S, bà C
yêu cầu bồi thường thiệt hại thành vụ án khác theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự.
[2.16] Đối với kháng cáo của ông N yêu cầu không buộc ông N phải thanh
toán cho ông Lê Văn Q số tiền 219.716.632 đồng vì hợp đồng hợp tác làm vườn
ngày 29/8/2020 giữa ông S và ông Q trong đó diện tích 1.974,1 m
2
đất không
sự đồng ý của ông N. Xét thấy, phần đất diện tích 1.974,1m
2
ông N đã lấy lại
quản lý, sử dụng nằm trong diện tích đất ông S ông Q hợp đồng hợp tác làm
vườn. Ông S cho rằng phần đất này ông N cho ông S thuê nhưng không được ông
N thừa nhận mà ông N cho rằng cho ông S mượn canh tác. Tuy nhiên, theo thừa
nhận của ông N thì việc ông S canh tác đất trên sở được ông N cho ợn,
quá trình sử dụng đất đến năm 2020, ông S và ông Q hợp đồng hợp tác trồng cây
để chia hoa lợi. Ông N biết nhưng không phản đối, ngăn cản. Đến năm 2022, ông
N tý lấy lại đất sử dụng, thời điểm y cây trồng trên đất theo Chứng thư
thẩm định giá có giá trị là 219.716.632 đồng. Những cây trồng trên đất có giá trị
lớn, không thể di dời được nên việc ông N yêu cầu ông Q phải đốn bỏ, di dời
không hợp lý, ảnh hưởng đến quyền lợi của ông S ông Q. Thực tế những cây
trồng gắn liền với đất phát sinh hoa lợi từ việc canh tác, khai thác ông N
đang sẽ được hưởng. vậy, cần ng nhận cho ông N được sở hữu toàn bộ
những cây trồng gắn liền với đất, đồng thời ông N phải trả lại giá trị cây trồng cho
ông Q phù hợp. Do đó, không căn cứ chấp nhận phần kháng cáo này của ông
N.
[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng
cáo của ông Nguyễn Thành D1, chấp nhận một phần kháng cáo của ông Nguyễn
Thiện N; chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn Nguyễn Thị D
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Bích P, Nguyễn Thị Mỹ
L, bà Nguyễn Thị Quí S1, bà Nguyễn Thị Tiến T, sửa mt phần bản án sơ thẩm.
[4] Án phí dân sự thẩm: Do sửa án thẩm, nên điều chỉnh lại án phí
chia tài sản án phí ông N phải chịu tương ứng nghĩa vụ phải thực hiện như sau:
Bà D là người cao tuổi nên được miễn án phí.
Ông S phải chịu 51.996.000 đồng án phí chia tài sản.
Ông N phải chịu 10.985.000 đồng án phí thực hiện nghĩa vụ đối với ông Q.
16
[5] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hậu Giang phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận một phần,
căn cứ Điều 29 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì không ai phải chịu án phí dân sphúc
thẩm.
Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
nên đã có hiệu lực pháp luật nên không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 3 Điều 296, khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng
dân sự;
Đình chỉ xét xử phúc thẩm một phần kháng cáo của Nguyễn Thị D đối
với yêu cầu độc lập của Ngân hàng N2 về xử lý tài sản thế chấp.
Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Bích P, bà Nguyễn Thị Mỹ L, bà
Nguyễn Thị Q S1, bà Nguyễn Thị Tiến T;
Chấp nhận kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông
Nguyễn Thành D1;
Chấp nhận một phần kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Nguyễn Thiện N;
Sửa một phần Bản án dân sự thẩm số 77/2023/DS-ST ngày 11 tháng 9
năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang.
Áp dụng: các Điều 130, 131, 133, 213, 323, 649, 650, 651, 660 của Bộ luật
Dân sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp,
quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị D.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Văn Q.
Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Thanh S.
1. Hợp đồng tặng cho quyền sdụng đất ngày 17/6/2009 giữa ông Nguyễn
Hồng B với ông Nguyễn Thanh S vô hiệu một phần;
17
1.1. Xác định phần đất tại: vị trí (1a) diện tích 2.062,8m
2
, thuộc một phần
thửa 73, loại đất CLN; vị trí (1b) diện tích 300m
2
, thuộc thửa 62, loại đất ONT; vị
trí (2) diện tích 3.123,4m
2
, thuộc một phần thửa 73, loại đất CLN và vị trí (3) diện
tích 4.647,7m
2
, thuộc thửa 71, loại đất LUC, tờ bản đồ số 30, theo Mảnh trích đo
địa chính số 541-2023 ngày 01/6/2023 của Công ty TNHH Đ2 tài sản chung
của vợ chồng ông Nguyễn Hồng B và bà Nguyễn Thị D.
Chia tài sản chung của vợ chồng ông Nguyễn Hồng Bbà Nguyễn Thị D
chia thừa kế theo pháp luật di sản của ông Nguyễn Hồng B (chết) để lại như
sau:
- Nguyễn Thị D được quyền sử dụng, sở hữu phần đất, căn nhà cây
trồng gắn liền với đất tại vị trí (1a) diện tích 2.062,8m
2
, thuộc một phần thửa 73,
loại đất CLN; vtrí (1b) diện tích 300m
2
, thuộc thửa 62, loại đất ONT quyền
sử dụng đất tại vtrí (2) diện tích diện tích 3.123,4m
2
, thuộc một phần thửa 73,
loại đất CLN, tờ bản đồ số 30 theo Mảnh trích đo địa chính số 541-2023 ngày
01/6/2023 của Công ty TNHH Đ2.
- Ông Nguyễn Thanh S được quyền sử dụng phần đất tại vị trí (3) diện tích
4.647,7m
2
, thuộc thửa 71, loại đất LUC, tờ bản đồ số 30, theo Mảnh trích đo địa
chính số 541-2023 ngày 01/6/2023 của Công ty TNHH Đ2.
- Đối với cây trồng gắn liền với đất tại vị trí (2), (3) được thực hiện theo
hợp đồng hợp tác giữa ông Nguyễn Thanh S và ông Văn Q. Nếu sau này
phát sinh tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.
- Nguyễn Thị D nghĩa vụ trả giá trị chênh lệch cho ông Nguyễn Thanh
S số tiền là 457.999.945 đồng.
1.2. Công nhận phần đất có diện tích 1.974,1m
2
và tài sản gắn liền với đất
tại vị trí (4) Mảnh trích đo địa chính số 541-2023 ngày 01/6/2023 của Công ty
TNHH Đ2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Thiện N.
1.3. Công nhận phần đất có diện tích 2.083,9m
2
và tài sản gắn liền với đất
tại vị trí (5) Mảnh trích đo địa chính số 541-2023 ngày 01/6/2023 của Công ty
TNHH Đ2 thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Nguyễn Thành D1.
1.4. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Nguyễn Thị D về việc mở lối đi qua bất
động sản liền kề phần đất tại vị trí (7), (8) có diện tích 756,9m
2
thể hiện tại Mảnh
trích đo địa chính số 122-2024 ngày 25/9/2024 của Công ty TNHH Đ2.
2. Buộc ông Nguyễn Thiện N phải thanh toán cho ông Văn Q số tiền
219.716.632 đồng (hai trăm mười chín triệu bảy trăm mười sáu ngàn sáu trăm ba
mươi hai đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
18
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ
luật Dân sự năm 2015.
3. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Bà Nguyễn Th D là người cao tuổi nên được miễn án phí.
- Ông Nguyễn Thanh S phải chịu 51.996.000 đồng án pchia tài sản, khấu
trừ số tiền tiền tạm ứng án phí ông S đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số
0011318 ngày 19/7/2023 của Chi cục Thi hành án dân shuyện Châu Thành, tỉnh
Hậu Giang. Số tiền án phí chia tài sản còn lại ông S phải nộp là 51.696.000 đồng.
- Ông Nguyễn Thiện N phải chịu số tiền là 10.985.000 đồng.
4. Chi phí thẩm định, đo đạc và định giá:
- Đối với phần tranh chấp giữa ông Q, ông S là 4.650.000 đồng. Ông Q,
ông S, ông N mỗi người phải chịu 1.550.000 đồng. Ông Q đã nộp xong nên ông
S, ông N mỗi người phải thanh toán lại cho ông Q 1.550.000 đồng.
- Đối với phần tranh chấp giữa bà D, ông S 31.040.000 đồng. D, ông
S mỗi người phải chịu là 15.520.000 đồng. Bà D đã nộp xong nên ông S phải nộp
15.520.000 đồng để trả lại cho bà D.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Hậu Giang;
- TAND huyện Châu Thành;
- Chi cục THADS huyện Châu Thành;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Tải về
Bản án số 199/2024/DS-PT Bản án số 199/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 199/2024/DS-PT Bản án số 199/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất