Bản án số 125/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 125/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 125/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 125/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 125/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Lâm Hà (TAND tỉnh Lâm Đồng) |
Số hiệu: | 125/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp về thừa kế tài sản giữa cụ C và ông T, ông S |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Đoàn Hạnh Trang
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Ngô Thị Luân
Ông Phạm Ngọc Diện
- Thư ký phiên tòa: Ông Phan Khắc Duy – Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng tham
gia phiên tòa: Ông Nguyễn Thế Hùng – Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh
Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 289/2023/TLST-DS ngày 29
tháng 11 năm 2023 về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản” theo quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 137/2024/QĐXXST-DS ngày 16 tháng 8 năm 2024 và Quyết
định hoãn phiên tòa số 80/2024/QĐST-DS ngày 12 tháng 9 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Cụ Nguyễn Thị C, sinh năm 1940; Địa chỉ: Tổ dân phố Đ,
thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trương Văn T, sinh năm: 1994; Địa
chỉ: Số F đường H, tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Theo văn
bản ủy quyền ngày 23/10/2023.
- Đồng bị đơn:
+ Ông Đỗ Phú T1, sinh năm: 1969; Địa chỉ: Tổ dân phố S, thị trấn Đ,
huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LÂM HÀ
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số:125/2024/DS-ST
Ngày 26/9/2024
V/v Tranh chấp về thừa kế
tài sản.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
Người đại diện theo ủy quyền: Chị Đỗ Thị Thùy T2, sinh năm: 1992; Địa
chỉ: Số B Q, tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
+ Ông Đỗ Phú S, sinh năm: 1979; Địa chỉ: Số A tổ A ấp C, xã Đ, huyện
H, thành phố Hồ Chí Minh.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Đỗ Thị T3, sinh năm 1970; Bà Đỗ Thị Kim C1, sinh năm 1973; Bà
Đỗ Thị P, sinh năm 1977; Bà Đỗ Thị T4, sinh năm 1981; Ông Đỗ Phú N, sinh
năm 1983; Bà Đỗ Thị Thu H, sinh năm 1988; Ông Đỗ Phú T5, sinh năm 1990;
Ông Đỗ Phú C2, sinh năm 1992;
Đều trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
+ Ông Đỗ Đức T6 (Đỗ Trọng Đ), sinh năm: 1987; Cụ Phạm Thị V, sinh
năm: 1953;
Đều trú tại: Số B Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
+ Bà Hà Thị Q, sinh năm: 1974; Địa chỉ: Tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện
L, tỉnh Lâm Đồng.
+ Vợ chồng ông Bùi Thế V1, sinh năm: 1962, bà Đặng Thị B, sinh năm:
1957; Địa chỉ: Số A tổ dân phố G, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.
(Tại phiên tòa, ông Trương Văn T, chị Đỗ Thị Thùy T2, ông Đỗ Phú S, bà
Đỗ Thị T3, bà Đỗ Thị T4, bà Đỗ Thị Thu H, ông Đỗ Phú T5, ông Đỗ Đức T6 có
mặt. Các đương sự khác vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Tại đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn
cụ Nguyễn Thị C, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Trương
Văn T trình bày: Cụ Nguyễn Thị C và cụ Đỗ Phú N1 xây dựng gia đình với
nhau năm 1964, có đăng ký kết hôn tại Quảng Nam nhưng do lâu ngày nên giấy
chứng nhận kết hôn đã bị cháy. Trước khi xây dựng gia đình với nhau thì cụ N1
và cụ C chưa kết hôn với ai khác.
Cụ N1 và cụ C sinh được 14 người con thì 04 người con đã chết trước cụ
N1. Hiện nay chỉ còn 10 người con gồm: Ông Đỗ Phú T1, bà Đỗ Thị T3, bà Đỗ
3
Thị Kim C1, bà Đỗ Thị P, bà Đỗ Thị T4, ông Đỗ Phú S, ông Đỗ Phú n, bà Đỗ
Thị Thu H, ông Đỗ Phú T5, ông Đỗ Phú C2. Ngoài ra cụ N1 có một người con
riêng là ông Đỗ Đức T6. Ngoài nhưng người con nêu trên thì cụ C và cụ N1
không còn người con chung, con riêng, con nuôi nào khác. Bố mẹ của cụ N1 là
cụ Đỗ Phú T7 và cụ Huỳnh Thị T8 đã chết trước cụ N1 (không nhớ năm chết).
Cụ N1 và cụ C tạo lập được tài sản là: Diện tích đất 159m
2
thuộc thửa 676
và diện tích đất 189,3m
2
thuộc thửa 675, tờ bản đồ 62 tọa lạc tại tổ dân phố Đ,
thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; Diện tích đất 11.068m
2
thuộc thửa 241, 247
và diện tích đất 4.319m
2
thuộc thửa 262 tờ bản đồ 57 xã P, đều tọa lạc tại thôn
L, xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; Số tiền tiết kiệm 800.000.000đồng. Ngoài ra
cụ N1 và cụ C không còn tài sản chung nào khác. Quá trình chung sống giữa cụ
C và cụ N1 không có nợ ai, không có nghĩa vụ bồi thường, cấp dưỡng.
Tháng 1/2023 cụ N1 chết không để lại di chúc. Sau khi cụ N1 chết thì gia
đình đã thống nhất chia di sản thừa kế là diện tích đất 159m
2
thuộc thửa 676 và
diện tích đất 189,3m
2
thuộc thửa 675, tờ bản đồ 62 thị trấn Đ; Số tiền tiết kiệm
thì cụ C đã rút toàn bộ để lo ma chay, xây mộ, cúng giỗ và các việc khác cho cụ
N1, phần còn lại cụ C giữ chi tiêu cá nhân. Vì vậy, cụ C không có tranh chấp gì
đối với thửa đất 675, 676 và số tiền tiết kiệm.
Đối với diện tích đất 11.068m
2
thuộc thửa 241, 247 và diện tích đất
4.319m
2
thuộc thửa 262 tờ bản đồ 57 xã P thì khi cụ N1 còn sống có di nguyện
để cho ông Đỗ Phú T5 toàn bộ tài sản này, ông T5 đã quản lý sử dụng, đầu tư
trên đất từ năm 2015 đến nay, những người trong hàng thừa kế không có ai quản
lý, đầu tư, tôn tạo tài sản này vì đã thống nhất cho ông T5 nhưng chưa hoàn tất
thủ tục sang tên cho ông T5, khi cụ N1 mất thì gia đình không thống nhất được
trọng việc hoàn tất giấy tờ nên các bên mới phát sinh tranh chấp. Vì vậy, cụ C
khởi kiện yêu cầu chia ½ diện tích đất thửa 241, 247, 262 tờ bản đồ 57 xã P,
huyện L. Đồng thời, cụ C yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ N1 để lại là ½ diện
tích đất thửa 241, 247, 262 tờ bản đồ 57 xã P, huyện L, cụ thể cụ C yêu cầu chia
di sản thừa kế thành 11 phần gồm cụ C và 10 người con chung của cụ C và cụ
N1. Ngoài ra cụ C không còn yêu cầu gì khác.
2. Bị đơn ông Đỗ Phú T1 và người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Đỗ Phú T1 là chị Đỗ Thị Thùy T2 trình bày: Về việc kết hôn giữa cụ chạy và cụ
niên, hàng thừa kế thứ nhất của cụ N1 và di sản thừa kế ông T1 đồng ý theo ý
kiến của nguyên đơn. Ông T1 yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Đỗ Phú N1 để
4
lại là ½ diện tích đất thửa 241, 247, 262 tờ bản đồ 57 xã P, huyện L, cụ thể ông
T1 yêu cầu chia di sản thừa kế thành 12 phần gồm cụ C và các con cụ N1 (10
người con chung và 01 người con riêng). Ông T1 yêu cầu nhận giá trị di sản
thừa kế theo kết quả định giá và yêu cầu nhận bằng tiền, không nhận bằng hiện
vật.
Đối với số tiền tiết kiệm 800.000.000đồng, sau khi cụ N1 chết thì cụ C rút
tiền mặt toàn bộ số tiền này nên ông T1 yêu cầu chia thừa kế đối với số tiền tiết
kiệm và ông T1 yêu cầu chia cho ông số tiền là 33.333.000đồng.
Đối với diện tích đất 159m
2
thuộc thửa 676, diện tích đất 189,3m
2
thuộc
thửa 675, tờ bản đồ 62 tọa lạc tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm
Đồng thì ông T1 không khởi kiện yêu cầu chia tài sản này. Ngoài ra ông T1
không còn yêu cầu gì khác.
3. Bị đơn ông Đỗ Phú S trình bày: Ông S xác định di sản thừa kế cụ Đỗ
Phú N1 để lại gồm diện tích đất 159m
2
thuộc thửa 676 và diện tích đất 189,3m
2
thuộc thửa 675, tờ bản đồ 62 tọa lạc tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh
Lâm Đồng; Diện tích đất 11.068m
2
thuộc thửa 241, 247 tờ bản đồ 57 xã P và
diện tích đất 4.319m
2
thuộc thửa 262 tờ bản đồ 57 xã P, đều tọa lạc tại thôn L,
xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng; Số tiền tiết kiệm 800.000.000đồng. Ông S yêu
cầu Tòa án Lâm Hà chứng minh quyền tài sản của cụ C và yêu cầu chia toàn bộ
các tài sản trên cho những người thừa kế theo pháp luật.
4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị T3, bà Đỗ Thị Kim
C1, bà Đỗ Thị P, bà Đỗ Thị T4, ông Đỗ Phú N, bà Đỗ Thị Thu H, ông Đỗ Phú
C2 trình bày: Cụ C và cụ N1 là bố mẹ của các ông bà, năm 2023 cụ N1 chết
không để lại di chúc, hàng thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật của cụ
N1 gồm: Cụ Nguyễn Thị C, ông Đỗ Phú T1, bà Đỗ Thị T3, bà Đỗ Thị Kim C1,
bà Đỗ Thị P, ông Đỗ Phú S, bà Đỗ Thị T4, ông Đỗ Phú N, bà Đỗ Thị Thu H,
ông Đỗ Phú T5, ông Đỗ Phú C2 và ông Đỗ Đức T6. Di sản thừa kế các ông bà
đồng ý theo ý kiến của cụ C là diện tích đất 11.068m
2
thuộc thửa 241, 247 và
diện tích đất 4.319m
2
thuộc thửa 262 tờ bản đồ 57 xã P, đều tọa lạc tại thôn L,
xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Các ông bà yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ
N1 để lại là ½ diện tích đất thửa 241, 247, 262 tờ bản đồ 57 xã P, huyện L, cụ
thể các ông bà yêu cầu chia di sản thừa kế thành 12 phần gồm cụ C và các con
cụ N1. Các ông bà yêu cầu chia cho các ông bà mỗi người một phần tạm tính là
170.000.000đồng và yêu cầu nhận bằng tiền, không yêu cầu nhận bằng hiện vật.
5
Ngoài ra các ông bà không còn yêu cầu gì khác.
5. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đỗ Phú T5 trình bày:
Ông T5 là con của cụ N1, cụ C, năm 2023 cụ N1 chết không để lại di chúc, hàng
thừa kế thứ nhất theo quy định của pháp luật của cụ N1, di sản thừa kế ông T5
đồng ý theo ý kiến của cụ C. Tuy nhiên, tài sản là thửa 241, 247, 262 tờ bản đồ
57 xã P lâu nay các anh chị em trong nhà không ai quản lý, sử dụng mà do ông
T5 quản lý, sử dụng và đầu tư chăm sóc toàn bộ.
Diện tích đất ông T5 đang sử dụng là 14.583 m², bao gồm 6.095 m² đất
thuộc một phần thửa số 241, 4.471 m² đất thuộc một phần thửa số 247, 4.017 m²
đất thuộc một phần thửa số 262 tờ bản đồ số 57 xã P. Ông T5 xác định di sản
thừa kế của cụ Đỗ Phú N1 để lại là diện tích đất 7291,5 m² thuộc một phần các
thửa đất số 241, 247, 262, tờ bản đồ số 57 xã P và các tài sản gắn liền với đất.
Theo kết quả định giá thì có giá trị là 1.946.732.125 đồng. Ông T5 yêu cầu được
nhận phần công sức quản lý, tôn tạo, giữ gìn, chăm sóc di sản thừa kế là 10%,
tương đương với số tiền 194.673.213đồng, công đào ao 94.640.000đồng, phần
còn lại ông T5 yêu cầu chia đều cho 12 người gồm mẹ ông và 11 người con của
cụ N1, trong đó phần của ông T5 yêu cầu chia là 146.004.909 đồng, tổng cộng
ông T5 yêu cầu chia số tiền 435.318.122 đồng. Trước đây mọi người đồng ý
giao đất cho ông T5 nhưng nay gia đình thỏa thuận lại sẽ giao cho cụ C nên ông
T5 đồng ý và ông yêu cầu được nhận bằng tiền. Ngoài ra, ông T5 không yêu cầu
chia tài sản nào khác.
6. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Đỗ Đức T6 (Đỗ Trọng
Đ) trình bày: Ông T6 là con riêng của cụ N1 nên ông T6 khởi kiện yêu cầu chia
di sản thừa kế của cụ N1 để lại là ½ diện tích đất thửa 241, 247, 262 tờ bản đồ
57 xã P, huyện L, cụ thể ông yêu cầu chia di sản thừa kế thành 12 phần gồm cụ
C và 11 người con của cụ niên. Ông yêu cầu nhận giá trị di sản thừa kế theo kết
quả định giá là 170.000.000đồng. Ngoài ra, ông T6 yêu cầu chia đối với số tiền
tiết kiệm 800.000.000đồng, ông yêu cầu chia đôi cụ C 400.000.000đồng, cụ N1
400.000.000đồng. Phần của cụ N1 thì ông yêu cầu chia cho ông số tiền là
33.333.000đồng. Ngoài ra, ông T6 không yêu cầu chia tài sản nào khác.
7. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cụ Phạm Thị V trình bày: Cụ
Phạm Thị V và cụ Đỗ Phú N1 chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1986.
Cụ V và cụ N1 có một con chung là Đỗ Đức T6, sinh năm: 1987. Sau khi sinh
con thì cụ N1 vẫn thường xuyên quan tâm, chăm sóc hai mẹ con (tức cụ N1 có
6
hai vợ). Mặc dù, trong giấy khai sinh thông tin cha đẻ của ông T6 không phải là
cụ N1 nhưng tất cả các thành viên trong gia đình cụ N1 đều thừa nhận quan hệ
huyết thống giữa ông T6 và cụ N1. Cụ V và cụ N1 là hôn nhân thực tế, mặc dù
không có đăng ký kết hôn nhưng cụ V và cụ N1 đã chung sống như vợ chồng từ
năm 1986 cho đến khi cụ N1 qua đời, cụ V cũng là vợ của cụ N1 nên cụ V yêu
cầu đưa cụ V tham gia vụ án với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Đối với tài sản của cụ N1 để lại là ½ diện tích đất thửa 241, 247, 262 thì
cụ V yêu cầu chia di sản thừa kế thành 13 phần cho hàng thừa kế thứ nhất của cụ
N1 gồm cụ V, cụ C và 11 người con của cụ N1. Trong đó cụ V yêu cầu chia cho
cụ V 01 phần theo kết quả định giá tạm tính là 156.923.000đồng và yêu cầu chia
số tiền tiết kiệm là 30.769.000 đồng. Ngoài ra, cụ V không yêu cầu chia tài sản
nào khác.
8. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Hà Thị Q trình bày: Ngày
09/10/2017 bà Q nhận chuyển nhượng diện tích đất 10.075m
2
thuộc thửa 246, tờ
bản đồ 57 tại thôn L, xã P, huyện L của ông Trương Văn K, trên đất đã có cà
phê vối trồng năm 2002. Các bên đã giao nhận đất trên thực địa, giao tiền và làm
thủ tục sang tên theo quy định pháp luật. Ranh giới đất giữa thửa 246 của bà Q
và đất của cụ Đỗ Phú N1 là một lối mòn rộng khoảng 01m (mỗi nhà bỏ ra 0.5m)
để làm lối đi canh tác đất, ranh giới là lối mòn nên giữa bà Q và hàng thừa kế
của cụ N1 không có tranh chấp, bà Q không có yêu cầu gì đối với diện tích đất
1.195m
2
thuộc một phần thửa 246 theo họa đồ đo đạc tại họa đồ đo đạc theo
hiện trạng sử dụng đất ngày 03/5/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện L mà ông T5 đang sử dụng, bà Q không có yêu cầu gì trong vụ án
này. Đồng thời, bà Q yêu cầu giải quyết vụ án vắng mặt bà Q.
9. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vợ chồng ông Bùi Thế V1, bà
Đặng Thị B trình bày: Vào năm 2015 ông V1, bà B có nhận chuyển nhượng
diện tích đất 20.179m
2
thửa 318 (trước đây là thửa 269) tờ bản đồ 57 xã P,
huyện L của ông D (nhà ở Đ). Sau đó ông V1, bà B đăng ký cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và sử dụng đất ổn định đến nay, không có tranh chấp về
ranh giới với ai. Giáp ranh đất của ông bà là thửa 262 của cụ Đỗ Phú N1, hiện
nay ông T5 con cụ N1 canh tác, phần đất của ông V1, bà B có giáp căn nhà chòi
của cụ N1, ranh giới rõ ràng (là mép hàng cà phê, mép hồ chứa nước, mép nhà)
không tranh chấp. Do đó ông V1, bà B không có tranh chấp. Theo họa đồ đo đạc
tại họa đồ đo đạc theo hiện trạng sử dụng đất ngày 03/5/2024 của Chi nhánh
7
Văn phòng đăng ký đất đai huyện L thì ông V1, bà B không có ý kiến và không
có yêu cầu gì. Đồng thời ông bà yêu cầu giải quyết vắng mặt ông bà.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải nhưng các bên không thỏa thuận được với nhau
về việc giải quyết vụ án nên Tòa án triển khai đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa, các bên vẫn giữ nguyên ý kiến của mình như trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét
xử, cụ thể: Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng Dân
sự trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng
xét xử đã tuân thủ đúng trình tự phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố
tụng Dân sự; các đương sự có mặt tại phiên tòa đã chấp hành đúng nội quy phiên
tòa theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét
xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của đồng nguyên đơn cụ Nguyễn Thị C về việc
tranh chấp thừa kế tài sản với ông Đỗ Phú T1, Đỗ Phú S và Đỗ Đức T6.
Xác định di sản thừa kế của cụ Đỗ Phú N1 là 1/2 diện tích đất 14.583m²
thuộc thửa 241, 247 và thửa 262 tờ bản đồ 57 xã P. Tổng giá trị di sản thừa kế là
1.946.730.000đồng. Sau khi trừ đi 10% công sức đóng góp tôn tạo, giữ gìn di
sản thừa kế của ông Đỗ Phú T5 là 194.673.000đồng. Do vậy di sản thừa kế còn
lại là 1.752.057.000 đồng và 1/2 số tiền 800.000.000đồng tiền gửi tiết kiệm.
Xác định những người hưởng di sản thừa kế của cụ N1 thuộc hàng thừa
kế thứ nhất gồm: cụ Nguyễn Thị C, ông Đỗ Phú T1, bà Đỗ Thị T3, bà Đỗ Thị
Kim C3, bà Đỗ Thị P, ông Đỗ Phú S, bà Đỗ Thị T4, ông Đỗ Phú N, bà Đỗ Thị
Thu H, ông Đỗ Phú T5, ông Đỗ Phú C2 và ông Đỗ Đức T6.
Giao cho cụ Nguyễn Thị C diện tích 14.583m² gồm diện tích 6.095m²
thuộc thửa 241, diện tích 4,471m² thuộc thửa đất 247, diện tích 4.017m² thửa
262 tờ bản đồ 57 xã P, trên đất có 01 giếng khoan, 01 ao nước, 1700 cây cà phê,
40 trụ tiêu, 12 cây Sầu Riêng. Cụ C có trách nhiệm thanh toán cho ông Đỗ Phú
T1, ông Đỗ Phú S mỗi người 146.005.000đồng.
Cụ C có trách nhiệm thanh toán cho ông Đỗ Đức T6 số tiền
179.337.750dồng (146.004.750 đồng giá trị đất + 33.333.000đồng tiền tiết
kiệm), làm tròn thành 179.338.000đồng
Cụ C, ông T1, ông S, ông T6 phải chịu chi phí tố tụng theo mức tương
8
ứng với giá trị tài sản được chia.
Ông T1, ông S, ông T6 phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Qua các chứng cứ, tài liệu được thể hiện trong hồ sơ và kết quả thẩm tra
tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận của đương sự tại phiên tòa, Hội
đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, bà Đỗ Thị Kim C1, bà Đỗ Thị P, ông
Đỗ Phú N, ông Đỗ Phú C2, cụ Phạm Thị V, bà Hà Thị Q, ông Bùi Thế V1, bà
Đặng Thị B vắng mặt nhưng có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì vậy, căn cứ
khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, Tòa án vẫn xét xử vắng mặt
các đương sự nêu trên là phù hợp.
[2] Về quan hệ tranh chấp: Cụ Nguyễn Thị C cho rằng cụ C là vợ cụ Đỗ
Phú N1, năm 2023 cụ N1 chết không để lại di chúc. Di sản cụ N1 để lại là ½
diện tích đất 11.068m
2
thuộc thửa 241, 247 và ½ diện tích đất 4.319m
2
thuộc
thửa 262 tờ bản đồ 57 xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Do gia đình không thống
nhất được với nhau về việc chia thừa kế nên cụ C khởi kiện yêu cầu chia thừa kế
tài sản. Vì vậy, căn cứ khoản 5 Điều 26 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 609, Điều
613 Bộ luật Dân sự xác định đây là vụ án dân sự về việc “Tranh chấp về thừa kế
tài sản”. Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lâm
Hà, tỉnh Lâm Đồng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự.
[3]. Về thời hiệu khởi kiện: Theo bản sao trích lục khai tử số 13/TLKT-
BS ngày 16/02/2023 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng thì
cụ N1 chết vào ngày 11/01/2023, cụ C khởi kiện vụ án ngày 23/10/2023, do đó
thời hiệu khởi kiện về thừa kế vẫn còn theo quy định tại Điều 623 của Bộ luật
Dân sự.
[4] Về quan hệ huyết thống: Cụ C xác định cụ C và cụ N1 xây dựng gia
đình với nhau năm 1964, có đăng ký kết hôn tại Quảng Nam nhưng do lâu ngày
nên giấy chứng nhận kết hôn đã bị cháy. Mặc dù cụ C không xuất trình được
giấy chứng nhận kết hôn nhưng qua xác minh thực tế tại địa phương thì được
biết cụ C và cụ N1 chung sống với nhau từ trước năm 1986 cho đến khi cụ N1
qua đời, cụ C có nộp các tài liệu chứng minh cụ C và cụ N1 chung sống có 10
người con lớn nhất sinh năm 1969, nhỏ nhất sinh năm 1992, quá trình chung
9
sống cụ C và cụ N1 có tạo lập được tài sản chung, có tham gia các giao dịch
khác theo quy định nên căn cứ Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH10 ngày
09/6/2000 của Quốc hội về việc thi hành luật Hôn nhân và gia đình xác định
quan hệ hôn nhân của cụ C và cụ N1 là hợp pháp.
Cụ C và cụ N1 có 14 người con chung nhưng 04 người con đã chết trước
cụ N1, hiện nay còn 10 người gồm: Ông T1, bà T3, bà C1, bà P, bà T4, ông S,
ông N, bà H, ông T5, ông C2.
Ngoài ra, cụ C xác định cụ N1 có 01 người con riêng là Đỗ Đức T6. Các
con của cụ N1, cụ C4 cho rằng ông T6 không phải là con của cụ N1 nhưng
không ai yêu cầu giám định ADN và không nộp chứng cứ chứng minh. Trong
khi đó tại biên bản đối chất (BL 192-196) cụ C và các con cụ C thừa nhận ông
T6 là con riêng của cụ N1. Ngoài ra, tại Văn bản phân chia tài sản thừa kế ngày
17/5/2023 (BL 36-38) đối với tài sản là thửa đất 675, 676 tờ bản đồ 62 thị trấn Đ
thì ông T6 có ký vào văn bản này, hiện nay tài sản này đã hoàn tất thủ tục và các
bên không tranh chấp, có nghĩa các bên đã thừa nhận ông T6 là người thuộc
hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của cụ N1. Hơn nữa, trong các đơn yêu cầu
độc lập thì các bên yêu cầu chia thành 12 phần là có cả phần ông T6. Như vậy
các bên đương sự đã mặc nhiên thừa nhận ông T6 là con của cụ N1. Nay các bên
đương sự lại khai ông T6 không phải con cụ N1, không phải hàng thừa kế thứ
nhất theo pháp luật nhưng không đưa ra được chứng cứ gì mới để chứng minh.
Ngoài ra các bên đương sự thừa nhận bố mẹ của cụ N1 là cụ Đỗ Phú T7 và cụ
Huỳnh Thị T8 đã chết trước cụ N1.
Quá trình giải quyết vụ án cụ Phạm Thị V có đơn trình bày cụ V và cụ N1
chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1986, có một con chung là Đỗ Đức
T6 là hôn nhân thực tế nên cụ V là hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật. Tuy
nhiên, cụ V không nộp chứng cứ, chứng minh. Qua xác minh thực tế tại địa
phương thì không có cơ sở theo lời trình bày của cụ V.
Vì vậy, căn cứ Điều 651 Bộ luật Dân sự xác định hàng thừa kế thứ nhất
của cụ N1 là 12 người gồm: Cụ Nguyễn Thị C là vợ hợp pháp của cụ N1 và 11
người con (10 người con chung, 01 người con riêng) gồm ông Đỗ Phú T1, bà Đỗ
Thị T3, bà Đỗ Thị Kim C1, bà Đỗ Thị P, ông Đỗ Phú S, bà Đỗ Thị T4, ông Đỗ
Phú N, bà Đỗ Thị Thu H, ông Đỗ Phú T5, ông Đỗ Phú C2 và ông Đỗ Đức T6.
[5]. Tất cả 12 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ N1 đều xác định
10
khi cụ N1 chết không để lại di chúc nên căn cứ Điều 649, Điều 650 Bộ luật Dân
sự cần xem xét chia di sản thừa kế theo pháp luật là phù hợp.
[6]. Về di sản thừa kế: Cụ C khởi kiện chia di sản thừa kế là diện tích đất
11.068m
2
thuộc thửa 241, 247 tờ bản đồ 57 xã P và diện tích đất 4.319m
2
thuộc
thửa 262 tờ bản đồ 57 xã P, đều tọa lạc tại thôn L, xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng
thì thấy rằng:
Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, kết quả định giá theo chứng thư
thẩm định giá số 24060314/CT-ĐNI ngày 03/6/2024 của Công ty cổ phần T9 và
kết quả đo đạc thửa đất theo hiện trạng sử dụng của Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai huyện L cung cấp ngày 03/5/2024 thì hiện nay ông Đỗ Phú T5 đang
quản lý sử dụng diện tích đất 14.583m
2
gồm diện tích 6.095m
2
thuộc thửa 241,
diện tích 4.471m
2
thuộc thửa đất 247, diện tích 4.017m
2
thửa 262 có giá trị là
3.208.260.000đồng; 01 căn nhà ở có giá trị 63.750.000đồng, 01 bể nước có giá
trị là 25.645.750đồng, 01 giếng khoan có giá trị 45.000.000đồng, 01 ao nước có
giá trị 94.640.000đồng, 1700 cây cà phê có giá trị 595.000.000đồng, 40 trụ tiêu
có giá trị là 8.000.000đồng, 12 cây Sầu Riêng có giá trị là 37.200.000đồng.
Tổng cộng là 4.077.495.750đồng làm tròn thành 4.077.500.000đồng. Ngoài ra
ông T5 còn sử dụng 1.195m
2
thuộc một phần thửa 246 đã được cấp quyền sử
dụng đất cho bà Hà Thị Q và 250m
2
thuộc một phần thửa 269 đã cấp quyền sử
dụng đất cho ông Bùi Thế V1, bà Đặng Thị B; 51m
2
thuộc một phần thửa 302
chưa xác định được chủ sở hữu. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa các
bên đương sự đồng ý với kết quả đo đạc, định giá nêu trên.
Xét thấy, đối với 01 căn nhà cấp 4 và bể nước nằm trên thửa đất số 269
của ông V1, bà B thì các bên đương sự thống nhất không yêu cầu giải quyết.
Qua làm việc với ông V1, bà B thì ông V1 bà B cũng xác định lâu nay ranh giới
hai bên sử dụng ổn định, không tranh chấp nên ông V1 bà B không có yêu cầu
gì. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.
Đối với ao nước thì những người trong hàng thừa kế thừa nhận ông T5
lâu nay quản lý sử dụng đất, ông T5 bỏ công ra đào nên thống nhất không yêu
cầu giải quyết. Vì vậy, cần xác định công đào ao là của ông T5 bỏ ra theo kết
quả định giá là 94.640.000đồng, ai nhận đất thì có trách nhiệm thành toán lại
công đào ao cho ông T5 là phù hợp.
Đối với diện tích 6.095m
2
thuộc thửa 241, diện tích 4.471m
2
thuộc thửa
11
đất 247, diện tích 4.017m
2
thửa 262, 01 giếng khoan, 1700 cây cà phê, 40 trụ
tiêu, 12 cây Sầu Riêng có tổng giá trị là 3.893.460.000đồng. Mặc dù một mình
cụ N1 đứng tên nhận chuyển nhượng nhưng tài sản trên được tạo lập trong thời
kỳ hôn nhân, cụ N1 không để lại văn bản giấy tờ nào khác chứng minh tài sản
này là tài sản riêng của cụ N1. Trong khi đó nhưng người thuộc hàng thừa kế
thứ nhất của cụ N1 đều xác định đây là tài sản chung của cụ N1 và cụ C và đồng
ý chia đôi. Vì vậy, theo quy định tại Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình phần
đất của cụ C là 7.291,5m
2
(14.583m
2
: 2) còn phần của cụ N1 là 7.291,5m
2
. Vì
vậy, di sản thừa kế của cụ N1 là 7.291,5m
2
thuộc một phần thửa 241, 247, 262
tờ bản đồ 57 xã P, tương đương với số tiền 1.946.730.000đồng
(3.893.460.000đồng : 2).
[7]. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông T5 yêu cầu chia công
sức quản lý, đầu tư di sản là 10% giá trị di sản của cụ N1 để lại với số tiền
194.673.000đồng. Tại phiên tòa, chị T2, ông S, ông T6 không đồng ý, những
người còn lại đồng ý theo yêu cầu của ông T5. Xét thấy, các đồng thừa kế đều
khẳng định kể từ năm 2017 khi cụ C, cụ N1 nhận chuyển nhượng đất cho đến
nay thì ông T5 là người trực tiếp quản lý, sử dụng, đầu tư, chăm sóc cây trồng
trên diện tích đất trên để đất có giá trị như ngày hôm nay, 11 người trong hàng
thừa kế không có ai quản lý sử dụng, đầu tư vào đất và các bên cũng thừa nhận
cụ N1 có di nguyện cho ông T5 các thửa đất trên nhưng chưa hoàn tất thủ tục
tặng cho thì cụ N1 mất. Vì vậy, căn cứ Điều 658 Bộ Luật Dân sự, để đảm bảo
quyền lợi của ông T5, trước khi chia di sản thừa kế cho các đồng thừa kế cần
tính công sức của ông T5 trong việc quản lý, tôn tạo làm tăng giá trị di sản là
10% giá trị di sản, tương đương với số tiền 194.673.000đồng
(1.946.730.000đồng x 10%) là phù hợp.
[8]. Giá trị di sản còn lại có giá trị là 1.752.057.000đồng
(1.946.730.000đồng - 194.673.000đồng). Quá trình giải quyết vụ án các bên
đương sự khẳng định không có nhu cầu sử dụng đất nên không yêu cầu nhận
bằng hiện vật mà thống nhất nhận bằng tiền và thống nhất giao đất cho cụ C
quản lý, sử dụng. Xét thấy, phần đất mà các bên đáng ra được nhận có diện tích
nhỏ, theo biên bản xác minh tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện L,
tỉnh Lâm Đồng thì diện tích đất các bên được nhận không đủ điều kiện để tách
thửa theo Quyết định số 51/2023/QĐ-UBND ngày 18-8-2023 của Ủy ban nhân
dân tỉnh L. Vì vậy, cần giao toàn bộ diện tích đất trên cho cụ C quản lý, sử dụng
12
theo yêu cầu của các bên, cụ C có trách nhiệm thanh toán lại cho các đồng thừa
kế giá trị di sản mà họ được nhận. Căn cứ Điều 660 Bộ Luât Dân sự chia đều
phần di sản trên cho 12 người thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật nên
mỗi người được nhận 146.004.750đồng.
[9]. Đối với yêu cầu khởi kiện của ông Đỗ Phú T1 yêu cầu chia số tiền tiết
kiệm thì thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án ông Đỗ Phú T1 có khởi kiện yêu
cầu chia số tiền tiết kiệm 800.000.000đồng, ông yêu cầu chia phần cho ông là
33.333.000đồng. Nhưng đến ngày 19/8/2024 ông Đỗ Phú T1 có đơn xin rút yêu
cầu khởi kiện yêu cầu chia số tiền tiết kiệm. Tại phiên tòa, người đại diện theo
ủy quyền của ông T1 giữ nguyên việc rút đơn nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều
217 Bộ luật tố tung Dân sự đình chỉ yêu cầu khởi kiện này của ông T1.
[10]. Đối với yêu cầu của ông Đỗ Đức T6 về việc yêu cầu chia số tiền tiết
kiệm là 33.333.000đồng thì thấy rằng: Cụ C và các con của cụ C không khởi
kiện chia số tiền số tiền tiết kiệm 800.000.000đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa ông
T6 giữ nguyên yêu cầu được nhận số tiền trên. Qua xác minh tại Quỹ Tín dụng
nhân dân B1, phòng giao dịch thị trấn Đ thì được biết ngày 13/01/2022 cụ N1
gửi số tiền 200.000.000đồng, ngày 14/3/2022 cụ N1 gửi số tiền
200.000.000đồng; ngày 21/6/2022 cụ N1 gửi số tiền 400.000.000đồng. Tổng
cộng cụ N1 gửi 800.000.000đồng, không có thông tin gì liên quan đến các con
cụ C, cụ N1 cùng gửi số tiền tiết kiệm trên. Đồng thời, qua xác minh thì sau khi
cụ N1 chết, cụ C đã rút toàn bộ số tiền tiết kiệm, hiện nay cụ C và cụ N1 không
còn khoản tiền gửi nào tại Quỹ Tín dụng nhân dân B, phòng giao dịch thị trấn Đ.
Tại phiên tòa, phía nguyên đơn đồng ý chia cho ông T6 số tiền 33.333.000đồng
nên cần ghi nhận.
Đối với những người khác trong hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật
không có yêu cầu chia đối với số tiền tiết kiệm nên Hội đồng xét xử không đặt ra
để xem xét giải quyết.
[11]. Đối với bị đơn ông Đỗ Phú S cho rằng cụ C không phải là vợ hợp
pháp của cụ N1 và có nộp văn bản nêu quan điểm về việc yêu cầu Tòa án Lâm
Hà chứng minh quyền tài sản của cụ C, yêu cầu chia toàn bộ tài sản cho những
người thừa kế theo pháp luật, trong đó có diện tích đất 159m
2
thuộc thửa 676 và
diện tích đất 189,3m
2
thuộc thửa 675, tờ bản đồ 62 thị trấn Đ và số tiền tiết kiệm
800.000.000đồng. Nhưng ông S không viết đơn khởi kiện chia thừa kế tài sản
theo đúng quy định và cũng không nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn nên Tòa
13
án đã thông báo sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện số 08/TB-TA ngày 22/4/2024
(BL70) gửi cho ông S, ông S đã ký nhận thông báo (BL71) nhưng ông S không
viết lại đơn khởi kiện, không nộp các tài liệu chứng cứ cho Tòa án nên Hội đồng
xét xử không xem xét yêu cầu khởi kiện của ông S trong vụ án này. Nếu sau này
các bên không tư giải quyết được với nhau, ông S có quyền khởi kiện bằng vụ
án Dân sự khác khi có chứng cứ chứng minh.
[12] Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là cụ Phạm Thị V có
đơn trình bày cụ V và cụ Đỗ Phú N1 là hôn nhân thực tế nên cụ V là hàng thừa
kế thứ nhất theo pháp luật và có yêu cầu chia di sản thừa kế nhưng đơn khởi
kiện chưa đúng mẫu đơn quy định, cụ V cũng không nộp tài liệu, chứng cứ kèm
theo đơn nên Tòa án đã ban hành thông báo số 12/TB-TA ngày 26/7/2024 về
việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện nhưng cụ V không viết đơn khởi
kiện và không nộp các tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án nên Hội đồng
xét xử không đặt ra để xem xét yêu cầu của cụ V.
[13] Đối với diện tích đất 1.195m
2
thuộc một phần thửa 246 đã được cấp
quyền sử dụng đất cho bà Hà Thị Q theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AK 731367 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 17/9/2007; Diện tích đất
250m
2
thuộc một phần thửa 269 đã cấp quyền sử dụng đất cho ông Bùi Thế V1,
bà Đặng Thị B theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 194616 do Ủy
ban nhân dân huyện L cấp ngày 03/3/2017 trên đất có một căn nhà, 01 bể nước;
Diện tích đất 51m
2
thuộc một phần thửa 302. Xét thấy, hiện nay ông T5 đang sử
dụng các phần đất này, các đồng thừa kế không ai yêu cầu giải quyết đối với các
phần đất trên. Bà Q, vợ chồng ông V1, bà B cũng xác định ranh giới các bên sử
dụng ổn định, hai bên không tranh chấp nên không có yêu cầu gì trong vụ án này
nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết đối với các phần đất
trên trong vụ án này.
[14]. Từ những nhận định phân tích nêu trên cần giao cho cụ Nguyễn Thị
C diện tích 14.583m
2
gồm diện tích 6.095m
2
thuộc thửa 241, diện tích 4.471m
2
thuộc thửa đất 247, diện tích 4.017m
2
thửa 262 tờ bản đồ 57 xã P, đều tọa lạc tại
thôn L, xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. Trên đất có 01 giếng khoan, 01 ao nước,
1700 cây cà phê, 40 trụ tiêu, 12 cây Sầu Riêng.
Cụ C có trách nhiệm thanh toán cho ông Đỗ Phú T1, bà Đỗ Thị T3, bà Đỗ
Thị Kim C1, bà Đỗ Thị P, ông Đỗ Phú S, bà Đỗ Thị T4, ông Đỗ Phú N, bà Đỗ
Thị Thu H, ông Đỗ Phú C2 mỗi người là 146.004.750đồng, làm tròn thành
14
146.005.000đồng. Đồng thời, thanh toán cho ông Đỗ Phú T5 số tiền
435.317.750đồng (công sức quản lý là 194.673.000đồng + 146.004.750đồng
được chia + công đào ao 94.640.000đồng), làm tròn thành 435.318.000đồng;
Thanh toán cho ông Đỗ Đức T6 số tiền 179.337.750đồng (146.004.750 đồng giá
trị đất + 33.333.000đồng tiền tiết kiệm), làm tròn thành 179.338.000đồng. Tuy
nhiên, quá trình giải quyết vụ án bà T3, bà C1, bà P, bà T4, ông N, bà H, ông
C2, ông T5 xác định đối với phần di sản các ông bà được chia thì các ông bà
không có nhu cầu nhận nên các ông bà tự nguyện nhường lại phần của mình cho
cụ C được hưởng, không yêu cầu cụ C phải thanh toán phần giá trị di sản các
ông bà được chia.
Xét thấy, việc định đoạt phần di sản của bà T3, bà C1, bà P, bà T4, ông N,
bà H, ông C2, ông T5 được hưởng là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã
hội và không trái pháp luật nên cần ghi nhận sự tự nguyện này của các đương
sự.
Như vậy, chỉ buộc cụ C thanh toán cho ông Đỗ Phú T1 và ông Đỗ Phú S
mỗi người là 146.005.000đồng và thanh toán cho ông Đỗ Đức T6 số tiền
179.338.000đồng.
[15]. Về chi phí tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án cụ Nguyễn Thị C có
đơn yêu cầu xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản tranh chấp nên
cụ C có nộp 30.058.873đồng chi phí tố tụng. Xét thấy, việc xem xét thẩm định
tại chỗ, đo đạc, định giá tài sản là cần thiết cho việc giải quyết vụ án. Tại phiên
tòa, các bên thống nhất ông T1, ông S, ông T6 mỗi người phải chịu
1.000.000đồng chi phí tố tụng, phần còn lại là 27.058.873đồng cụ C nhận chịu.
Chi phí tố tụng cụ C đã quyết toán toàn bộ nên buộc ông T1, ông S, ông T6 mỗi
người phải thanh toán lại cho cụ C số tiền 1.000.000đồng chi phí tố tụng.
[16] Về án phí: Theo quy định tại khoản 7 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án buộc các bên đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với kỷ
phần thừa kế mỗi người được chia theo quy định của pháp luật.
Cụ C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần giá trị tài sản cụ
C được chia và án phí dân sự sơ thẩm đối với phần giá trị tài sản do bà T3, bà
C1, bà P, bà T4, ông N, bà H, ông C2, ông T5 nhường kỷ phần cho cụ C được
15
nhận. Xét thấy, cụ C là người cao tuổi và cụ C có đơn xin miễn nộp tạm ứng án
phí, án phí nên quá trình giải quyết vụ án cụ C không phải nộp tạm ứng án phí.
Căn cứ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí dân sự sơ
thẩm cho cụ C.
Buộc ông T1 phải chịu 7.300.250đồng án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền
ông T1 được nhận (146.005.000đồng x 5%), làm tròn thành 7.300.000đồng.
Buộc ông S phải chịu 7.300.250đồng án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền
ông T1 được nhận (146.005.000đồng x 5%), làm tròn thành 7.300.000đồng.
Buộc ông T6 phải chịu 8.966.900đồng án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền
ông T6 được nhận là 179.338.000đồng, làm tròn là 8.967.000đồng.
Bà T3, bà C1, bà P, bà T4, ông N, bà H, ông C2, ông T5 nhường kỷ phần
thừa kế của mình cho cụ C, các ông bà không nhận tài sản nên các ông bà không
phải chịu án phí. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí cho bà T3, bà C1, bà P, bà T4,
ông N, bà H, ông C2, ông T5.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 5 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 235 và
Điều 266 Bộ luật tố tụng Dân sự;
Căn cứ Điều 609, Điều 611, Điều 612, Điều 613, Điều 623, Điều 649,
Điều 650, Điều 651 và Điều 660 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 12, khoản 7 Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của cụ Nguyễn Thị C về việc tranh chấp
về thừa kế tài sản đối với ông Đỗ Phú T1, ông Đỗ Phú S.
2. Đình chỉ một phần yêu cầu phản tố của ông Đỗ Phú T1 về việc yêu cầu
chia thừa kế tài sản là số tiền tiết kiệm.
3. Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Đỗ Đức T6 (Đỗ Trọng Đ) về việc
16
yêu cầu chia thừa kế tài sản.
4. Xác định hàng thừa kế thứ nhất theo pháp luật của cụ Đỗ Phú N1 là 12
người gồm: cụ Nguyễn Thị C, ông Đỗ Phú T1, bà Đỗ Thị T3, bà Đỗ Thị Kim
C1, bà Đỗ Thị P, ông Đỗ Phú S, bà Đỗ Thị T4, ông Đỗ Phú N, bà Đỗ Thị Thu
H, ông Đỗ Phú T5, ông Đỗ Phú C2 và ông Đỗ Đức T6 (Đỗ Trọng Đ).
- Giao cho cụ Nguyễn Thị C được quyền quản lý, sử dụng diện tích
6.095m
2
thuộc thửa 241, diện tích 4.471m
2
thuộc thửa đất 247, tờ bản đồ 57 tọa
lạc tại thôn L, xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AK 702372 do Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 31/7/2007, điều
chỉnh biến động sang tên cụ Đỗ phú N2 vào ngày 08/11/2016 và diện tích
4.017m
2
thửa 262 tờ bản đồ 57 tọa lạc tại thôn L, xã P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng,
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 702373 do Ủy ban nhân dân
huyện L cấp ngày 31/7/2007, điều chỉnh biến động sang tên cụ Đỗ Phú N1 vào
ngày 08/11/2016. Trên đất có 01 giếng khoan, 01 ao nước, 1700 cây cà phê
Rôbusta, 40 trụ tiêu, 12 cây Sầu Riêng (Có trích lục họa đồ kèm theo).
Cụ Nguyễn Thị C phải thanh toán cho ông Đỗ Phú T1 số tiền
146.005.000đồng (Một trăm bốn mươi sáu triệu, không trăm lẻ năm ngàn đồng).
Cụ Nguyễn Thị C phải thanh toán cho ông Đỗ Phú S số tiền
146.005.000đồng (Một trăm bốn mươi sáu triệu, không trăm lẻ năm ngàn đồng).
Cụ Nguyễn Thị C phải thanh toán cho ông Đỗ Đức T6 (Đỗ Trọng Đ) số
tiền 179.338.000ồng (Một trăm bảy mươi chín triệu, ba trăm ba mươi tám ngàn
đồng).
Cụ Nguyễn Thị C được liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
được điều chỉnh, sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi hoàn
thành nghĩa vụ thanh toán kỷ phần thừa kế cho các hàng thừa kế còn lại.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (khi
án đã có hiệu lực pháp luật) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án
còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất
quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
5. Về chi phí tố tụng: Cụ Nguyễn Thị C nhận chịu 27.058.873đồng (Hai
mươi bảy triệu, không trăm năm mươi tám ngàn, tám trăm bảy mươi ba đồng),
số tiền này đã được quyết toán xong.
Buộc ông Đỗ Phú T1, ông Đỗ Phú S, ông Đỗ Đức T6 (Đỗ Trọng Đ) mỗi
17
người phải thanh toán cho cụ Nguyễn Thị C số tiền 1.000.000đồng (Một triệu
đồng) chi phí tố tụng.
6. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho cụ Nguyễn Thị C.
Buộc ông Đỗ Phú T1 phải chịu 7.300.000đồng (Bảy triệu ba trăm ngàn
đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 5.083.000đồng tạm
ứng án phí ông Đỗ Phú T1 đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí
Tòa án số 0004912 ngày 05/8/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm
Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ông Đỗ Phú T1 còn phải nộp 2.217.000đồng (Hai triệu, hai
trăm mười bảy ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc ông Đỗ Phú S phải chịu 7.300.000đồng (Bảy triệu, ba trăm ngàn
đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Buộc ông Đỗ Đức T6 (Đỗ Trọng Đ) phải chịu 8.967.000đồng (Tám triệu,
chín trăm sáu mươi bảy ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào
số tiền 5.083.000đồng tạm ứng án phí ông Đỗ Đức T6 (Đỗ Trọng Đ) đã nộp
theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004906 ngày 02/8/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Ông Đỗ Đức
T6 (Đỗ Trọng Đ) còn phải nộp 3.884.000đồng (Ba triệu, tám trăm tám mươi bốn
ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho bà Đỗ Thị T3 số tiền 4.250.000đồng (Bốn triệu, hai trăm
năm mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí bà Đỗ Thị T3 đã nộp theo biên lai thu tiền
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004897 ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi hành
án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả cho bà Đỗ Thị Kim C1 số tiền 4.250.000đồng (Bốn triệu, hai
trăm năm mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí bà Đỗ Thị Kim C1 đã nộp theo biên
lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004898 ngày 31/7/2024 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả cho bà Đỗ Thị P số tiền 4.250.000đồng (Bốn triệu, hai trăm năm
mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí bà Đỗ Thị P đã nộp theo biên lai thu tiền tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004904 ngày 01/8/2024 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả cho bà Đỗ Thị T4 số tiền 4.250.000đồng (Bốn triệu, hai trăm
năm mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí bà Đỗ Thị T4 đã nộp theo biên lai thu tiền
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004900 ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi hành
18
án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả cho ông Đỗ Phú N số tiền 4.250.000đồng (Bốn triệu, hai trăm
năm mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí ông Đỗ Phú N đã nộp theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004902 ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả cho bà Đỗ Thị Thu H số tiền 4.250.000đồng (Bốn triệu, hai trăm
năm mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí bà Đỗ Thị Thu H đã nộp theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004899 ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả cho ông Đỗ Phú T5 số tiền 10.706.000đồng (Mười triệu, bảy
trăm lẻ sáu ngàn đồng) tạm ứng án phí ông Đỗ Phú T5 đã nộp theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004901 ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả cho ông Đỗ Phú C2 số tiền 4.250.000đồng (Bốn triệu, hai trăm
năm mươi ngàn đồng) tạm ứng án phí ông Đỗ Phú C2 đã nộp theo biên lai thu
tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004903 ngày 31/7/2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều
6,7,7a,7b và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện
theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/9/2024), các đương sự có
mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo. Riêng các đương sự vắng mặt tại phiên
tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm
Đồng xét xử phúc thẩm.
Nơi nhận: T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Lâm Đồng (02); THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND huyện Lâm Hà;
- Chi cục THADS huyện Lâm Hà;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, BP.
19
Trịnh Đoàn Hạnh Trang
Tải về
Bản án số 125/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 125/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/10/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Bản án số 610/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND TP. Hà Nội về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 28/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 27/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Bản án số 23/2024/DS-PT ngày 26/09/2024 của TAND tỉnh Hà Nam về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 26/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 25/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm