Bản án số 80/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 của TAND Quận 3, TP. Hồ Chí Minh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 80/2019/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 80/2019/HS-ST ngày 03/10/2019 của TAND Quận 3, TP. Hồ Chí Minh về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND Quận 3 (TAND TP. Hồ Chí Minh)
Số hiệu: 80/2019/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/10/2019
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 80/2019/HS-ST NGÀY 03/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 77/2019/HS-ST ngày 03 tháng 9 năm 2019, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 342/2019/HSST-QĐ ngày 20 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN M (tên gọi khác: H), sinh ngày 18-9-1970 tại Thành phố Hồ Chí Minh; trú tại: 800 đường A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; con ông Nguyễn Văn Đ (chết) và bà Nguyễn Thị S (chết); tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Từ năm 2003 đến năm 2007 đi cai nghiện ma túy theo Quyết định của UBND Thành phố Hồ Chí Minh và bị quản lý sau cai nghiện theo Nghị Định 135/2004/NĐ-CP tại Trung tâm chữa bệnh Đức Hạnh; bị bắt phạm tội quả tang ngày 07-6-2019. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ ngày 07-6-2019, M đến cầu Nhị Thiên Đường, Quận 8 mua ma túy của một thanh niên (không rõ lai lịch) với giá 200.000 đồng, cất trong ví tiền để vào túi sau bên trái để sử dụng. Khi M điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Air Blade, màu đỏ biển số 52K9-0541 đến trước số 125 Cách mạng Tháng 8, Phường 5, Quận 3 thì gặp tổ hình sự đặc nhiệm Công an Quận 3 tiến hành kiểm tra phát hiện trong ví tiền M để trong túi quần sau bên trái có 01 gói nylon hàn kín hai đầu, bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy đã đưa người cùng tang vật về trụ sở Công an Phường 5, Quận 3 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3 Nguyễn Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tại Bản kết luận giám định số 1255/KLGĐ-H ngày 14-6-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Bột màu trắng trong gói nylon gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1918gr, loại Heroin.

Bản cáo trạng số 67/CT-VKS ngày 03-9-2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận 3 đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Văn M thừa nhận đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như đã nêu trên. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; đề nghị xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy do Công an Quận 3 thu giữ; giao trả 02 điện thoại di động cho bị cáo; tịch thu, tiêu hủy 01 ví màu đen.

Bị cáo Nguyễn Văn M đã nhận thấy hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an Phường 5, Quận 3 lập ngày 07-6-2019, Bản kết luận giám định số 1255/KLGĐ-H ngày 14-6-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh; lời khai nhận tội của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của người làm chứng cùng với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 07-6-2019, bị cáo Nguyễn Văn M đã bị bắt quả tang có hành vi cất giữ trái phép 0,1918gr, loại Heroin là đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[2] Trước khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Nguyễn Văn M hoàn toàn biết rõ tác hại của việc mua bán cũng như tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo vẫn bất chấp và lao vào con đường phạm tội. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy do bị cáo Mẫn thực hiện không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách của Nhà nước về độc quyền quản lý các chất ma túy và bài trừ tệ nạn sử dụng trái phép chất ma túy mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân trực tiếp làm phát sinh các tội phạm khác và làm lan truyền các căn bệnh nguy hiểm chưa có thuốc chữa trong nhân dân. Do vậy bị cáo phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi mình đã gây ra.

[3] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 3, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 3, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[4] Tuy nhiên cũng xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn nhận tội, có thái độ thật sự ăn năn hối cải; do đó áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo để có hình phạt tù nghiêm khắc và tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo.

[5] Vật chứng của vụ án: Xét số ma túy do Cơ quan điều tra thu giữ là vật cấm lưu hành, tàng trữ và không có giá trị sử dụng, áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tịch thu và tiêu hủy. Đối với 01 xe gắn máy biển số 60K9-0881 bị cáo khai mượn của một người bạn tên P (không rõ lai lịch), Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Quận 3 đã thông báo tìm chủ sở hữu nhưng cho đến nay vẫn không có sự phản hồi, do vậy giao cho Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3 xử lý là có căn cứ; 02 điện thoại di động là của bị cáo không liên quan đến vụ án nên giao trả lại; 01 ví màu đen không có giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH3 ngày 25-11-2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 01 (một) năm tù; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt phạm tội quả tang là ngày 07 tháng 6 năm 2019.

Tịch thu, tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau khi đã sử dụng phục vụ giám định: Bột màu trắng có khối lượng 0,1288g được niêm phong có chữ ký của Giám định viên và Điều tra viên và 01 ví ngang màu đen, kích thước khoảng 10cm x 20cm;

Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3 làm thủ tục thông báo trên báo để tìm và trả lại một xe gắn máy hiệu Air Blade màu đen, biển số: 52K9-0541, số máy: JF18E5023464, số khung: RLHJF18077Y523346, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong, không kiểm tra tình trạng hoạt động. Nếu quá 06 (sáu) tháng kể từ ngày ra thông báo mà không có chủ sở hữu hợp pháp đến nhận xe thì tịch thu và nộp ngân sách nhà nước. Nếu chủ sở hữu hợp pháp là bị cáo trong vụ án thì tịch thu và nộp ngân sách nhà nước;

Giao trả cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Land Rover, màu đen, số Imei 1: 355236030385810, Imei 2: 355236030385828 và 01 điện thoại di động hiệu Vertu, màu vàng, số Imei 1: 355180321258262, số Imei 2: 355180321309768, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong, không kiểm tra tình trạng hoạt động;

(Tài sản tịch thu, tiêu hủy; giao trả và giao cho Chi cục Thi hành án dân sự Quận 3 ghi trong Lệnh nhập kho vật chứng số 170 ngày 13-6-2019 và số 190 ngày 05-8-2019 của Công an Quận 3).

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

Tải về
Bản án số 80/2019/HS-ST Bản án số 80/2019/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất