Bản án số 06/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 06/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 06/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Mỹ Lộc (TAND tỉnh Nam Định)
Số hiệu: 06/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/02/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bị cáo Nguyễn Hữu M, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2000, tại thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ LỘC, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 06/2024/HS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 04/2024/TLST-HS ngày 19 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 04/2024/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2024, đối với:

Bị cáo Nguyễn Hữu M, sinh ngày 21 tháng 8 năm 2000, tại thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: số X đường T, phường M, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu V và bà Trần Thị P; vợ, con: không; tiền sự: không; tiền án: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 26 tháng 12 năm 2023, chuyển tạm giam ngày 29 tháng 12 năm 2023; có mặt.

- Người chứng kiến:

1. Anh Lê Văn T, vắng mặt.

2. Ông Lê Văn B, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 26 tháng 12 năm 2023, bị cáo Nguyễn Hữu M đi taxi từ nhà đến thành phố N với mục đích mua ma túy để sử dụng. Khi đến ngõ Y, phường M, thành phố N, tỉnh Nam Định bị cáo M gặp và hỏi mua ma túy của một người đàn ông không quen biết tên là T (không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ). T đồng ý bán ma túy cho bị cáo. Sau đó, bị cáo đưa cho T 1.800.000 đồng và T đưa cho bị cáo một túi ni lông màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng cục màu trắng và một viên nén hình hộp màu vàng. Bị cáo cầm số ma túy trên cất vào túi quần rồi đi taxi đến quốc lộ A thuộc xã M, huyện L, tỉnh Nam Định bị cáo xuống xe đi bộ và tìm chỗ sử dụng ma túy. Lúc đó, vào khoảng 21 giờ, cùng ngày, bị cáo đi gần đến khu vực nhà nghỉ S thuộc thôn Z, xã M, huyện L, tỉnh Nam Định thì tổ công tác Công an huyện Mỹ Lộc làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại Quốc lộ A thuộc xã M, huyện L phát hiện, bắt quả tang bị cáo đang tàng trữ trái phép một gói ma túy đá và một viên nén hình hộp màu vàng (bị cáo khai là ma túy mua để sử dụng bản thân). Tổ công tác đưa bị cáo về trụ sở Công an huyện Mỹ Lộc lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong toàn bộ vật chứng theo quy định.

Vật chứng thu giữ gồm: Một túi ni lông màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng cục màu trắng và một viên nén hình hộp màu vàng được niêm phong.

Tại Kết luận giám định số 143/KL-KTHS ngày 28 tháng 12 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu rắn dạng cục màu trắng trong một túi ni lông màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy là Ketamine. Khối lượng mẫu: 1,563 gam.

Mẫu một viên dạng nén màu vàng, hình hộp có kích thước khoảng (7x7x5)mm được niêm phong gửi giám định là ma túy. Loại ma túy là MDMA. Khối lượng mẫu: 0,410 gam.

Đối với người đàn ông tên T đã bán ma túy cho bị cáo M, do không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc không có căn cứ điều tra xử lý.

Bản cáo trạng số 04/CT-VKS-ML ngày 17 tháng 01 năm 2024, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu M về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 5 của Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều Bộ luật Hình sự năm 2015 thì tỷ lệ về khối lượng của hai chất ma túy Ketamine và MDMA bị cáo M tàng trữ là 16,015% nên thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo M khai nhận việc cất giữ ma túy trong người để sử dụng là vi phạm pháp luật. Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo M từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù. Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu, tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy đã thu giữ; căn cứ vào Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 tuyên nghĩa vụ chịu án phí đối với bị cáo.

Bị cáo nói lời sau cùng là ăn năn hối cải đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo M không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với người chứng kiến vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong hồ sơ vụ án đã có lời khai của họ, được cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, bản kết luận giám định chất ma túy; lời khai của người làm chứng cũng như toàn bộ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra. Từ các tình tiết, chứng cứ nêu trên đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ, ngày 26 tháng 12 năm 2023, tại khu vực gần nhà nghỉ S thuộc thôn Z, xã M, huyện L, tỉnh Nam Định bị cáo Nguyễn Hữu M đã có hành vi tàng trữ trái phép hai chất ma túy là Ketamine có khối lượng 1,563 gam và MDMA có khối lượng 0,410 gam với mục đích sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng mà Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Lộc truy tố là có căn cứ.

[3] Về tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội: Ma túy không chỉ đơn thuần là chất gây nghiện mà còn là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm khác, làm lây truyền bệnh tật. Ma túy là hiểm họa của nhân loại bị xã hội lên án và loại trừ. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể được Luật Hình sự bảo vệ, đó là sự quản lý đặc biệt về các chất ma túy của Nhà nước.

[4] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Nhân thân của bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ nhận định trên, cân nhắc tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, số lượng ma túy, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự thì cần phải áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội là cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đảm bảo tính giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, mục đích tàng trữ ma túy chỉ để nhằm thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không có mục đích mua bán kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Số ma túy được thu giữ sau khi được giám định là Ketamine và MDMA chất cấm tàng trữ, lưu hành căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu và tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu M phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu M 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26 tháng 12 năm 2023.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo Nguyễn Hữu M không bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu và tiêu hủy toàn bộ số ma túy đã thu giữ được niêm phong trong một phong bì thư có đặc điểm theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18 tháng 01 năm 2024 giữa Công an huyện Mỹ Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định.

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Hữu M phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Nguyễn Hữu M có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án quy định tại Điều 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 06/2024/HS-ST Bản án số 06/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất