Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 03-04-2024 của TAND huyện Ngân Sơn (TAND tỉnh Bắc Kạn) về về tội tàng trữ chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
13-2024-HS-ST-NGAN-SON-BAC-KAN
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 13/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 03-04-2024 của TAND huyện Ngân Sơn (TAND tỉnh Bắc Kạn) về về tội tàng trữ chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Ngân Sơn (TAND tỉnh Bắc Kạn) |
| Số hiệu: | 13/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 03/04/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Vụ án Hà Văn C1 phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN NGÂN SƠN
TỈNH BẮC KẠN
Bản án số: 13/2024/HS-ST
Ngày 03/4/2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGÂN SƠN, TỈNH BẮC KẠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thái Công.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Lý Văn Trường;
Ông Đào Việt Hưng.
- Thư ký phiên tòa: Bà La Quỳnh Anh – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Ngân
Sơn, tỉnh Bắc Kạn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn tham gia phiên tòa: Ông
Nông Thiêm Mẫn - Kiểm sát viên.
Trong ngày 03 tháng 4 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngân Sơn,
tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 05/2024/TLST-
HS ngày 06 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
10/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
Hà Văn C1; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15 tháng 9 năm 1979 tại huyện P,
tỉnh T; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Tổ A, thị trấn B, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc
Kạn; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Văn Đ (đã chết) và bà Nông Thị T,
sinh năm 1955; Bị cáo có vợ là Hà Thị C, sinh năm 1978 (đã ly hôn) và 01 người con,
sinh năm 2017.
Tiền án: 02 tiền án (ngày 30/7/2019 bị Tòa án nhân dân (TAND) huyện B, tỉnh C
xử phạt 24 tháng tù về tội mua bán trái phép chất ma túy theo Bản án số 20/2019/HSST;
Ngày 30/11/2021 bị TAND huyện C, tỉnh D xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ
trái phép chất ma túy theo Bản án số 24/2021/HSST).
Tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 19/9/2023 đến ngày 27/9/2023, ngày 28/9/2023 bị áp
dụng biện pháp tạm giam nhưng do bị cáo bị bệnh xuất huyết tiêu hóa, bệnh trào ngược
dạ dày nên ngày 22/11/2023 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh và hiện
đang được tại ngoại tại tổ A, thị trấn B, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn (có mặt tại phiên
tòa).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
2
+ Bà Nông Thị T, sinh năm 1955; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ: Tổ A, thị trấn
B, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt có lý do.
+ Chị Hà Thị M, sinh năm 1984; Nghề nghiệp: Viên chức; Địa chỉ: Tiểu khu A, thị
trấn C, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Vắng mặt có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án
được tóm tắt như sau:
Hồi 17 giờ 00 phút ngày 19/9/2023, Tổ công tác Công an thị trấn B phối hợp với
Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Hình sự - Kinh tế - Ma túy Công an huyện Ngân Sơn
thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát về an ninh trật tự tại tổ A, thị trấn B, huyện Ngân
Sơn phát hiện đối tượng Hà Văn C1, sinh năm 1979, trú tại tổ A, thị trấn B, huyện Ngân
Sơn, tỉnh Bắc Kạn đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ 01
gói được gói bằng 04 lớp: Lớp ngoài cùng là nilon màu đỏ; lớp thứ hai là giấy màu
trắng dang giấy vệ sinh; lớp thứ ba là giấy màu trắng có chữ và hoa văn; lớp trong cùng
là loại giấy một mặt màu trắng, một mặt màu vàng tại túi quần đằng trước bên phải đang
mặc của C1 (niêm phong trong phong bì ký hiệu T1); 01 ĐTDĐ có bàn phím, màu vàng
đen. Mặt trước có chữ Vertu, mặt sau có hình con ngựa, cũ đã qua sử dụng, được niêm
phong trong phong bì ký hiệu T2; Số tiền 1.242.000 đồng phát hiện tại túi quần đằng
sau bên phải của C1 đang mặc, được niêm phong trong phong bì ký hiệu T3; 01 xe mô
tô BKS 97F7-8904, nhãn hiệu Honda Wave S, màu đen xám do C1 điều khiển. Ngoài ra
không thu giữ, tạm giữ gì thêm. Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc đưa người và
tang vật về trụ sở Công an để làm việc.
Hồi 15 giờ 20 phút ngày 20/9/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện
Ngân Sơn, tiến hành khám xét chỗ ở và các công trình phụ cận có liên quan của Hà Văn
C1 tại tổ A, thị trấn B, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Kết quả khám xét không phát
hiện, thu giữ thêm đồ vật, tài liệu gì có liên quan đến hành vi vi phạm của C1.
Hồi 22 giờ 20 phút ngày 19/9/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn
tiến hành mở, đóng niêm phong và cân xác định khối lượng số chất màu trắng dạng cục,
bột trong phong bì ký hiệu T1 thu được của Hà Văn C1 có tổng khối lượng 0,74 gam,
cân riêng số chất màu trắng dạng cục và bột có khối lượng 0,13g và được niêm phong
trong phong bì ký hiệu B1 để gửi đi giám định. Số vật chứng còn lại gồm 01 phong bì
ký hiệu T1 đã mở niêm phong, giấy gói cũ cho vào phong bì mới niêm phong ký hiệu
B2.
Tại Kết luận giám định số 296/KL-KTHS ngày 26/9/2023 của Phòng Kỹ thuật
Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng cục, bột trong phong
bì ký hiệu B1 là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,13g. Sau giám định mẫu chất
trong phong bì ký hiệu B1 còn lại 0,09g cùng phong bì, bao gói cũ niêm phong vào
phong bì mới ký hiệu T167 hoàn trả lại cho Cơ quan trưng cầu.
Qua xác minh nhân thân của Hà Văn C1 đang có 02 tiền án chưa được xóa án
tích, trong đó bản án số 24/2021/HSST ngày 30/11/2021 của TAND huyện C, tỉnh D xử
3
phạt 01 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và bị áp dụng tình tiết tặng
nặng tái phạm, ngày 09/02/2023 chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.
Qua trình điều tra bị cáo Hà Văn C1 khai nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày
19/9/2023, Hà Văn C1 một mình điều khiển xe mô tô BKS 97F7-8904 mượn của em gái là
Hà Thị M từ nhà ở tổ A, thị trấn B, huyện Ngân Sơn đi theo đường Quốc lộ 3 vào khu vực
đập tràn gần Trung đoàn X (nơi bộ đội đóng quân) thuộc tổ A, thị trấn B, huyện Ngân Sơn
để tìm mua ma túy. Tại đây C1 gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết tên,
tuổi, địa chỉ) trông giống người nghiện nên hỏi mua ma túy và được người đó đồng ý bán
ma túy cho với số tiền là 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy C1 cất gói ma túy vào túi
quần đằng trước bên phải đang mặc rồi đi về nhà. Khi đến đoan đường thuộc tổ A, thị trấn
B thì bị tổ công tác Công an kiểm tra, phát hiện và thu giữ số ma túy trên. Sau đó cơ quan
Công an đã tiến hành lập biên bản sự việc và đưa C1 cùng tang vật về trụ sở để làm việc.
Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKSNS, ngày 05/02/2024 của Viện kiểm sát nhân
dân huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Hà Văn C1 về tội: “Tàng trữ trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự
(BLHS) năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn giữ nguyên quan
điểm truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội: “Tàng trữ trái phép
chất ma túy” theo quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của BLHS năm 2015 (sửa đổi,
bổ sung năm 2017). Đề nghị xử lý bị cáo như sau:
*Về trách nhiệm hình sự:
- Về hình phạt chính: Đề nghị áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249, Điều 38, Điểm s
khoản 1 + khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt
bị cáo từ 05 năm 06 tháng tù đến 06 năm 06 tháng tù.
- Hình phạt bổ sung: Không đề nghị áp dụng đối với bị cáo.
*Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 47
của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 phong bì niêm phong trên mặt phong bì ghi: “B2 giấy gói cũ và phong bì
niêm phong ban đầu của Hà Văn C1”.
+ 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “ phong bì niêm phong
cũ ký hiệu T3 được niêm phong trong phong bì ký hiệu B3”.
+ 01 phong bì niêm phong ký hiệu T167, bên trong có chất ma túy, cùng phong
bì, bao gói cũ hoàn trả sau giám định.
- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động bàn phím bấm, có chữ Vertu, màu vàng
đen, đã qua sử dụng niêm phong trong phong bì ký hiệu B4.
- Trả lại cho bà Nông Thị T số tiền 1.242.000 đồng đựng trong 01 phong bì dán
kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “Số tiền 1.242.000 đồng tạm giữ của Hà Văn C1
ngày 19/9/2023 sau kiểm tra, ký hiệu B4”.
4
- Trả lại cho chị Hà Thị M, chiếc xe môtô BKS: 97F7- 8904; Nhãn hiệu Honda
Wave S; Màu sơn: Xanh xám đen; Số khung: RLHHC12019Y096703; Số máy:
HC12E1656322, xe đã qua sử dụng (kèm theo 01 đăng ký môtô, xe máy số: 010166; 01
chìa khóa xe).
*Về Án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn đã truy tố và nhất trí với quan điểm luận tội của
Kiểm sát viên; Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa hay khiếu nại gì. Lời sau
cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi và quyết định của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngân
Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi,
quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết
định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Hồi 17 giờ 10 phút ngày 19/9/2023 tại tổ A, thị trấn B, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc
Kạn, tổ công tác Công an huyện Ngân Sơn đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm tra phát
hiện Hà Văn C1, sinh năm 1979, trú tại tổ A, thị trấn B, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn
đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,13g ma túy, loại Heroine, mục đích tàng trữ là để bản
thân sử dụng. Hà Văn C1 đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi
phạm tội do cố ý, nên phải chịu tình tiết định khung là tái phạm nguy hiểm về tội tàng
trữ trái phép chất ma túy.
Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền quản lý của
Nhà nước đối với các chất ma túy, là nguyên nhân dẫn đến tệ nạn xã hội và các hành vi
vi phạm pháp luật khác. Việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ngân sơn ra
quyết định khởi tố vụ án, tiến hành điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn
quyết định truy tố bị cáo trước Tòa án để xét xử về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma
túy” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017) là đúng quy định của pháp luật, đúng với diễn biến khách quan của vụ án, không
bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Điều luật có nội dung:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán,
vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì
bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
...

5
c) Heroine... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.
…
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến
10 năm:
a)...
o) Tái phạm nguy hiểm;
...
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm
đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản".
Hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, các vấn đề khác và Điều luật mà kiểm sát viên đề
nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật nên
được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với
bị cáo:
3.1. Về tình tiết tặng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
3.2. Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có nhân thân xấu, đã 2 lần bị tuyên
án về hành vi mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng
không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục phạm tội. Trong quá trình điều
tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi
phạm tội của bản thân, do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Người phạm tội
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS
năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra bị cáo có ông nội là Hà Khải P được
Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì do đã có công trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản
2 của Điều luật.
[4] Về hình phạt:
4.1. Về hình phạt chính: Xét tính chất, mức độ, tính nguy hiểm cho xã hội của bị
cáo, Hội đồng xét xử thấy cần buộc bị cáo phải chịu hình phạt tù tại trại giam một thời
gian nhất định, qua đó mới thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật và cũng để răn đe,
phòng ngừa chung.
4.2. Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt
tiền quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật tuy nhiên qua xem xét thấy bị cáo bản
thân nghiện chất ma túy, không có nghề nghiệp và tài sản riêng do vậy không xem xét
áp dụng.
[5] Về những vấn đề khác liên quan:
6
Đối với người đàn ông theo Hà Văn C1 khai nhận được đưa tiền để mua ma túy,
quá trình điều tra không xác định được họ tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có
căn cứ để xử lý.
Đối với chị Hà Thị M, sinh năm 1984, trú tại tiểu khu A, thị trấn C, huyện Ngân
Sơn, tỉnh Bắc Kạn đã cho C1 mượn xe, quá trình sử dụng xe Cường đã dùng vào việc đi
mua ma túy chị M không biết nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý đối với chị
Mai.
[6] Xử lý vật chứng trong vụ án:
Quá trình điều tra thu giữ:
- 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “T167 Mẫu hoàn trả vụ:
Hà Văn C1 (1979), tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 04 chữ ký không
đọc được và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn nơi
giáp lai. Xét không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “B2 Giấy gói cũ và phong
bì niêm phong ban đầu của Hà Văn C1”. Mặt sau phong bì có 08 chữ ký không đọc được;
01 dòng chữ “Nguyễn Thị Phượng”; 01 dòng chữ “Chu Thanh Tương”; 01 dòng chữ “Hà
Văn C1” và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc
Kạn nơi giáp lai. Xét không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “ Phong bì niêm phong cũ
ký hiệu T3 được niêm phong trong phong bì ký hiệu B3”. Mặt sau phong bì có 03 chữ ký
không đọc được; 01 dòng chữ “Chu Thanh Tương” và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Cơ quan
CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn nơi giáp lai. Xét không có giá trị cần tịch
thu tiêu hủy.
- 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “ 01 chiếc điện thoại di
động bàn phím bấm tạm giữ của Hà Văn C1 ngày 19/9/2023 và phong bì niêm phong cũ
ký hiệu T2 sau kiểm tra được niêm phong trong phong bì ký hiệu B4”. Mặt sau phong bì
có 04 chữ ký không đọc được; 01 dòng chữ “Chu Thanh Tương”; 01 dòng chữ “Hà Văn
C1” và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn
nơi giáp lai. Xét chiếc điện thoại không liên quan đến vụ án do vậy cần trả lại cho bị cáo,
còn chiếc phong bì cũ không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy.
- 01 chiếc xe môtô BKS: 97F7- 8904; Nhãn hiệu Honda Wave S; Màu sơn: Xanh
xám đen; Số khung: RLHHC12019Y096703; Số máy: HC12E1656322, xe đã qua sử
dụng (kèm theo 01 đăng ký môtô, xe máy số: 010166; 01 chìa khóa xe). Xét đây là tài
sản thuộc sở hữu hợp pháp của chị Hà Thị M, không liên quan đến vụ án do vậy cần trả
lại cho chị Hà Thị M.
- 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “ Số tiền 1.242.000đ (một
triệu hai trăm bốn mươi hai nghìn đồng) tạm giữ của Hà Văn C1 ngày 19/9/2023 sau
kiểm tra, ký hiệu B4”. Mặt sau phong bì có 03 chữ ký không đọc được; 01 dòng chữ
“Chu Thanh Tương” và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân
Sơn, tỉnh Bắc Kạn nơi giáp lai. Quá trinh điều tra xác định số tiền này là do bà Nông Thị
7
T, mẹ đẻ của bị cáo đưa cho bị cáo đi mua vật liệu xây dựng, không liên quan đến hành vi
phạm tội của bị cáo do vậy cần trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là bà Nông Thị T.
[7] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng kinh tế - xã hội
đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí do vậy cần miễn toàn bộ án phí hình sự sơ
thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249, Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1, khoản 2
Điều 51 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điểm c khoản 2 và điểm b
khoản 3 Điều 106, Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội.
1. Tuyên bố bị cáo Hà Văn C1 phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt
2.1. Hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Hà Văn C1 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án (được trừ thời
gian đã bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo từ ngày 19/9/2023 đến ngày 22/11/2023).
2.2. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.
3. Về xử lý vật chứng trong vụ án:
3.1. Tịch thu tiêu hủy:
- 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “T167 Mẫu hoàn trả vụ:
Hà Văn C1 (1979), tàng trữ trái phép chất ma túy”. Mặt sau phong bì có 04 chữ ký không
đọc được và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn nơi
giáp lai.
- 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “B2 Giấy gói cũ và phong
bì niêm phong ban đầu của Hà Văn C1”. Mặt sau phong bì có 08 chữ ký không đọc được;
01 dòng chữ “Nguyễn Thị Phượng”; 01 dòng chữ “Chu Thanh Tương”; 01 dòng chữ “Hà
Văn C1” và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc
Kạn nơi giáp lai.
- 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt phong bì ghi: “ Phong bì niêm phong cũ
ký hiệu T3 được niêm phong trong phong bì ký hiệu B3”. Mặt sau phong bì có 03 chữ ký
không đọc được; 01 dòng chữ “Chu Thanh Tương” và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Cơ quan
CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn nơi giáp lai.
- Phong bì niêm phong cũ đựng trong 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt
phong bì ghi: “ 01 chiếc điện thoại di động bàn phím bấm tạm giữ của Hà Văn C1 ngày
19/9/2023 và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T2 sau kiểm tra được niêm phong trong
phong bì ký hiệu B4”. Mặt sau phong bì có 04 chữ ký không đọc được; 01 dòng chữ
8
“Chu Thanh Tương”; 01 dòng chữ “Hà Văn Cường” và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Cơ quan
CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn nơi giáp lai.
3.2. Trả lại cho bị cáo
- 01 chiếc điện thoại di động đựng trong 01 phong bì dán kín niêm phong trên mặt
phong bì ghi: “ 01 chiếc điện thoại di động bàn phím bấm tạm giữ của Hà Văn C1 ngày
19/9/2023 và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T2 sau kiểm tra được niêm phong trong
phong bì ký hiệu B4”. Mặt sau phong bì có 04 chữ ký không đọc được; 01 dòng chữ
“Chu Thanh Tương”; 01 dòng chữ “Hà Văn C1” và 02 dấu tròn đỏ, dấu của Cơ quan
CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn nơi giáp lai;
3.3. Trả lại cho bà Nông Thị T, sinh năm 1955, địa chỉ tổ dân phố A, thị trấn B,
huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn số tiền 1.242.000 đồng đựng trong 01 phong bì dán kín
niêm phong trên mặt phong bì ghi: “ Số tiền 1.242.000đ (một triệu hai trăm bốn mươi hai
nghìn đồng) tạm giữ của Hà Văn C1 ngày 19/9/2023 sau kiểm tra, ký hiệu B4”. Mặt sau
phong bì có 03 chữ ký không đọc được; 01 dòng chữ “Chu Thanh Tương” và 02 dấu tròn
đỏ, dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn nơi giáp lai.
3.4. Trả lại cho chị Hà Thị M, sinh năm 1984, địa chỉ tiểu khu A, thị trấn C,
huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn 01 chiếc xe môtô BKS: 97F7- 8904; Nhãn hiệu Honda
Wave S; Màu sơn: Xanh xám đen; Số khung: RLHHC12019Y096703; Số máy:
HC12E1656322, xe đã qua sử dụng (kèm theo 01 đăng ký môtô, xe máy số: 010166; 01
chìa khóa xe).
(Số lượng, tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày
20/02/2024 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngân Sơn và Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Ngân Sơn).
4. Về án phí: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu
thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo
bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết nơi
cư trú./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh;
- VKSND tỉnh;
- VKSND huyện;
- Sở Tư pháp;
- Công an huyện;
- Chi cục THADS huyện;
- Bị cáo, người có QLNVLQ đến vụ án;
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
- Lưu.
Nguyễn Thái Công
10
11
12
13
14
15
CÁC HỘI THẨM NHÂN DÂN
Hoàng Ngọc Hùng Hoàng Thị Huyên
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thái Công
16
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 08/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 04/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm