Bản án số 74/2020/HS-PT ngày 26/06/2020 của TAND tỉnh Bình Định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 74/2020/HS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 74/2020/HS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 74/2020/HS-PT ngày 26/06/2020 của TAND tỉnh Bình Định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Định |
Số hiệu: | 74/2020/HS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 26/06/2020 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 74/2020/HS-PT NGÀY 26/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 43/2020/TLPT-HS ngày 01 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Trần Văn T do có kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2020/HS-ST ngày 22 tháng 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H.
Bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị:
TRẦN VĂN T - Sinh năm 1989 tại Bình Định; Trú tại: Thôn G, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T (1943) và con bà Bùi Thị C (chết); có vợ là Nguyễn Thị H (1990) và có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 04/5/2019, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 01/5/2019, Nguyễn Quốc H gọi điện thoại cho Trần Văn T nói cần bán ma túy với giá rẻ, T và H thỏa thuận mua gói ma túy giá 6.000.000 đồng, T thanh toán trước 2.000.000 đồng còn 4.000.000 đồng trả sau. Đến 02 giờ ngày 02/5/2019, T đến nhà H nhận gói nilon chứa ma túy kích thước (11x7)cm, T đưa cho H 2.000.000 đồng rồi mang về nhà cất giấu. Đến 17 giờ 30 cùng ngày, H tiếp tục gọi điện thoại cho T nói cần bán ma túy giá rẻ nhưng phải thanh toán đủ. T mua gói ma túy giá 3.000.000 đồng, yêu cầu H giao ma túy tại nhà T. Khoảng 18 giờ cùng ngày, một thanh niên lạ mặt, khoảng 28 tuổi đem 03 gói ma túy (02 gói kích thước (7x2,5)cm và 01 gói kích thước (5x2,5)cm) giao cho T nhận tiền rồi bỏ đi. Khoảng 0 giờ ngày 04/5/2019, Trần Văn T mặc áo khoác, ống tay trái xoăn lên giấu 3 gói ma túy (02 gói kích thước (7x2,5)cm kẹp trong bìa giấy màu hồng và 01 gói dán keo băng đen kích thước (5x2,5)cm) đi từ H đến nhà Nguyễn Văn S ở thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Bình Định. Đến đoạn đường gần nhà hàng T thuộc thôn Đ, xã H thì T gặp bạn là Nguyễn Đình N và Phạm Nguyễn Ngọc T. Lúc này, T dừng xe tại ngã ba đoạn đường bê tông phía Nam phòng khám siêu âm V hướng vào hẻm nhà của Nguyễn Văn S. T lấy trong tay áo trái 02 gói ma túy kích thước (7x2,5) cm kẹp trong bìa giấy màu hồng giấu trên hàng rào bảng hiệu cắt Decal ở hướng Nam đường bê tông. Lát sau, N chở T đến chỗ T để nói chuyện và đợi bạn gái. Khi cả nhóm đang tụ tập thì tổ tuần tra Công an huyện H xuất hiện, tổ công tác tiến hành kiểm tra tìm thấy trong tay áo trái của Trần Văn T 01 gói nilon kích thước (5x2,5)cm chứa các hạt tinh thể không màu nghi là chất ma túy và trên hàng rào bảng hiệu cắt Decal gần vị trí của T đang đứng có 2 nilon kích thước (7x2,5)cm kẹp trong bìa giấy màu hồng bên trong mỗi gói chứa các hạt tinh thể không màu nghi là chất ma túy.
Ngày 04/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H tiến hành khám xét nơi ở của Trần Văn T thu giữ được 01 gói nilon kích thước (11x7)cm bên trong chứa các hạt tinh thể không màu nghi là chất ma túy.
Ngày 06/5/2019, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể không màu trong gói nilon kích thước (5x2,5)cm là Methamphetamine, có khối lượng 0,7422 gam; các hạt tinh thể không màu trong hai gói nilon kích thước (7x2,5)cm là Methamphetamine, có khối lượng lần lượt là 1,9620 gam và 1,9768 gam.
Ngày 10/5/2019, Phòng kỹ hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận: Các hạt tinh thể không màu trong gói nilon kích thước (11x7)cm là Methamphetamine, có khối lượng 17,4910 gam.
Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2020/HS-ST ngày 22 ngày 4 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H đã quyết định:
Tuyên bố: Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
- Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 04/5/2019.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.
Ngày 24 tháng 4 năm 2020, bị cáo Trần Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 15 tháng 5 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định kháng nghị phúc thẩm số 06/QĐ-VKS đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Văn T.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn T và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định xử phạt bị cáo từ 6 năm đến 6 năm 6 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu khác có trong sơ vụ án thể hiện: Ngày 04/5/2019 Trần Văn T có hành vi tàng trữ 03 gói ma túy tại thôn Đệ Đức, huyện H và tàng trữ 01 gói ma túy tại nhà riêng. 04 gói ma túy có trữ lượng 22,172gam Methemphetamin. Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số 15/2020/HSST ngày 22/4/2020 của Tòa án nhân dân huyện H đã xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Văn T và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo phạm tội với T tiết định khung tăng nặng “…Methamphetamine có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 BLHS có khung hình phạt tù từ 5 năm đến 10 năm; bị cáo phạm tội với 1 T tiết định khung và 1 T tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo có nhân thân tốt, không có T tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 08 năm tù là có phần nghiêm khắc chưa cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Do đó, hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn T và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định, giảm cho bị cáo một phần hình phạt cũng đủ để răng đe, giáo dục bị cáo. Sửa bản án sơ thẩm.
[3] Theo điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Trần Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Sửa bản án sơ thẩm.
2. Tuyên bố: Trần Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm; Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T 6 (sáu) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 04/5/2019.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Văn T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!