Bản án số 68/2018/HS-ST ngày 13/06/2018 của TAND TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 68/2018/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 68/2018/HS-ST ngày 13/06/2018 của TAND TP. Long Xuyên, tỉnh An Giang về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Long Xuyên (TAND tỉnh An Giang)
Số hiệu: 68/2018/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/06/2018
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 68/2018/HS-ST NGÀY 13/06/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 45/2018/HSST ngày 12 tháng 4 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2018/HSST ngày 08 tháng 5 năm 2018, đối với các bị cáo: 

Tô Thanh D (Lê Văn H), sinh năm 1984 tại LX, tỉnh An Giang; Nơi đăng ký HKTT: Không; Chỗ ở hiện nay: Không nơi cư trú nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Học lực: 5/12; Cha: Tô Phát Đạt, không rõ năm sinh; Mẹ: Đỗ Thị Ngọc A (chết); Vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1986 (đã ly hôn); có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2011;

Tiền án: Ngày 08/3/2017, bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân, thành phốHồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến ngày 02/02/2018 chấp hành xong hình phạt tù.

- Tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/02/2018 cho đến nay.

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Lâm Văn B, sinh năm 1979; địa chỉ: K6, phường ML, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau:

Tô Thanh D không nơi cư trú nhất định, vừa chấp hành xong hình phạt 01 năm 06 tháng tù về “Tội trộm cắp tài sản” vào ngày 02/02/2018. Khoản 01 giờ ngày 06/02/2018, D đến khu vực phường ML, thành phố Long Xuyên với mục đích tìm tài sản lấy trộm. Khi vào hẻm LTT, k 5, phường ML thấy chiếc xe ba – gác gắn đầu kéo xe mô tô Trung Quốc, nhãn hiệu Best, kiểu dáng Future màu xanh, biển số 67H5-5217 đậu ở lề đường nhưng không rút chìa khóa. Lợi dụng sơ hở này, D đến lấy trộm xe ba – gác điều khiển đến xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp tìm nơi tiêu thụ thì bị Công an xã Bình Thành mời làm việc. Lúc này, D khai nhận xe ba – gác D lấy trộm như nêu trên nên Công an xã đã lập biên bản tạm giữ phương tiện chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Long Xuyên. Cùng lúc anh Lâm Văn B là chủ sở hữu xe ba – gác đến Công an phường Mỹ Long trình báo việc anh B bị mất xe ba – gác.

Kết luận định giá tà sản số 07/KL.HĐ ngày 06/02/2018 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Long Xuyên, xác đinh: Xe mô tô Trung Quốc nhãn hiệu Best, kiểu dáng Future, biển số 67H5-5217 và thùng xe bằng sắt - tole, tổng trị giá 5.250.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 46/CT-VKS ngày 11/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang truy tố bị cáo Tô Thanh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang luận tội:

Bị cáo Tô Thanh D đã khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như nội dung cáo trạng đã công bố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong quá trình điều tra vụ án, phù hợp lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác được cơ quan điều tra thu thập hợp pháp được kiểm chứng tại phiên tòa hôm nay. Do đó, có đủ căn cứ khẳng định cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là gây thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra, bị cáo cũng có nhân thân không tốt nên đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng. Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cây dao bằng kim loại, cán bằng nhựa màu vàng, đã qua sử dụng; 01 (một) chìa khóa loại ống điếu, bằng kim loại, màu đen, đã qua sử dụng; 02 (hai) cây đoản tự chế, bằng kim loại, màu đen, đã qua sử dụng;

Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, số IMEI 1: 355020052335725, số IMEI 2: 35502335733, Model: A5, đã qua sử dụng.

- Bị cáo Tô Thanh D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên; bị cáo yêu cầu được nhận lại 01 điện thoại di động, không yêu cầu nhận lại dao, chìa khóa, cây đoản. Bị cáo nói lời nói sau cùng và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

 [1] Về tố tụng: Bị hại anh Lâm Văn B đã được tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử và hoãn phiên tòa nhưng anh B vắng mặt; tuy nhiên, anh B đã có lời khai tại hồ sơ vụ án và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại nên việc vắng mặt của anh B không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án; do đó, Tòa án không hoãn phiên tòa hôm nay theo quy định tại khoản 1 Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

 [2] Về trách nhiệm hình sự:

Bị cáo Tô Thanh D sinh năm 1984, tại thời điểm chiếm đoạt tài sản của anh Lâm Thanh B đều trên 18 tuổi; theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm đã thực hiện nên việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đối với bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo Tô Thanh D khai nhận vào ngày 02/02/2018, bị cáo đi tìm tài sản để chiếm đoạt; vì vậy, khi đến hẻm LTT, phường ML, thành phố Long Xuyên bị cáo đã lấy chiếc xe ba – gác gắn đầu kéo xe mô tô Trung Quốc, nhãn hiệu Best, kiểu dáng Furture màu xanh, biển số 67H-5217 và điều khiển đến xã Bình Thành, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.

Kết luận định giá tài sản số 07/KL.HĐ ngày 06/02/2018 của Hội đồng Định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Long Xuyên, xác định: xe mô tô Trung Quốc, nhãn hiệu Best, kiểu dáng Furture màu xanh, biển số 67H-5217 và thùng xe bằng sắt + tole, tổng trị giá 5.250.000 đồng.

Luật quy định người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ căn cứ kết luận bị cáo Tô Thanh D đã phạm tội.

Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo Tô Thanh D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [3] Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ:

Bị cáo Tô Thanh D là người đã trưởng thành nên nhận thức và điều khiển được hành vi của mình; bị cáo có sức khỏe để tạo ra của cải chính đáng nhưng do lười lao động, sợ cực nhọc nhưng lại muốn có tiền tiêu xài nhanh chóng nên bị cáo đã cố tình phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, và gây hoang mang cho mọi người khi đang phải mưu sinh, ảnh hưởng đến đời sống bình thường của xã hội.

Bị cáo Tô Thanh D đã bị Tòa án nhân dân kết án về tội chiếm đoạt tài sản, ngày 02/02/2018 chấp hành xong bản án nhưng đến ngày 06/02/2018 lại phạm tội mới tức mới hơn được 04 ngày nên chưa được xóa án tích; như vậy, bị cáo đã tái phạm, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Ngoài ra vào năm 2006 và 2009, bị cáo cũng đã bị Tòa án nhân dân kết án về tội chiếm đoạt tài sản và đánh bạc nên bị cáo có nhân dân không tốt.

Vì vậy, cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tiếp tục giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người tốt; đồng thời góp phần vào việc phòng chống tội phạm.

Tuy nhiên, có xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại nên thiệt hại không lớn đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên cần được xem xét khi quyết định mức hình phạt đối với bị cáo.

 [4] Về xử lý vật chứng: Đối với:

- 01 (một) cây dao bằng kim loại, cán bằng nhựa màu vàng, đã qua sử dụng;

- 01 (một) chìa khóa loại ống điếu, bằng kim loại, màu đen, đã qua sử dụng;

- 02 (hai) cây đoản tự chế, bằng kim loại, màu đen, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, số IMEI 1: 355020052335725, số IMEI 2: 35502335733, Model: A5, đã qua sử dụng.

Thấy, điện thoại di động là tài sản riêng của bị cáo không trực tiếp sử dụng vào việc phạm tội và có yêu cầu được nhận lại; còn các tài sản khác bị cáo chưa sử dụng vào việc phạm tội nhưng bị cáo không yêu cầu nhận lại nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viên kiểm sát.

 [5] Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Lâm Thanh B đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì khác nên không xét đến.

 [6] Về án phí sơ thẩm:

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố: Bị cáo Tô Thanh D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

 [1] Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Bị cáo Tô Thanh D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 06/02/2018.

[2] Về xử lý vật chứng:

Căn cứ: Điều 47, 48 Bộ luật hình sự 2015; Điều 106; Bộ luật tố tụng hình sự 2015

- Trả lại bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel, số IMEI 1:355020052335725, số IMEI 2:  35502335733, Model: A5, đã qua sử dụng

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) cây dao bằng kim loại, cán bằng nhựa màu vàng, đã qua sử dụng; 01 (một) chìa khóa loại ông điếu, bằng kim loại, màu đen, đã qua sử dụng; 02 (hai) cây đoản tự chế, bằng kim loại, màu đen, đã qua sử dụng; (Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27/4/2018)

 [2] Về án phí:

Căn cứ: Khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

- Bị cáo nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

[3] Về quyền kháng cáo:

Người bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án theo quy định của luật.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. /.

Tải về
Bản án số 68/2018/HS-ST Bản án số 68/2018/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất