Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 31/01/2024 của TAND huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/HS-ST ngày 31/01/2024 của TAND huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Nông Sơn (TAND tỉnh Quảng Nam) |
| Số hiệu: | 02/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 31/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN QUẾ SƠN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 02/2024/HS-ST
Ngày 26/01/2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ SƠN, TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: bà Trương Thị Sen.
Các Hội thẩm nhân dân: - bà Nguyễn Thị Tám.
- ông Nguyễn Công Tài.
- Thư ký phiên tòa: bà Nguyễn Hồ Thu Thảo, Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam
tham gia phiên tòa: ông Nguyễn Trọng Tư - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 01 năm 2024, Tòa án nhân dân huyện Quế Sơn xét xử sơ
thẩm trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2023/TLST-HS ngày 22 tháng
12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS
ngày 10 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn T, sinh ngày 31/12/1988 tại xã C, huyện S, tỉnh N; nơi cư trú:
thôn Đ, xã C, huyện S, tỉnh N; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn:
12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con
ông Nguyễn Xuân T1, sinh năm 1962 và bà Mai Thị T2, sinh năm 1965; bị cáo
có vợ đã ly hôn và có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 12/9/2023, chuyển tạm giam ngày 18/9/2023
đến nay.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1969;
địa chỉ: thôn H, xã Tr, huyện H1, tỉnh Ng.
Người chứng kiến: anh Trương Viết Th, sinh năm 1995; địa chỉ: thôn Đ1 ,
xã C, huyện S, tỉnh N.
Người tham gia tố tụng khác tại điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an
huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam: ông Nguyễn Văn Liêm - Thư ký Toà án nhân
dân huyện Quế Sơn.
Tại phiên tòa, vắng mặt bà N và anh Th; những người tham gia tố tụng
khác đều có mặt.
2
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 11/9/2023, bị cáo đi từ nhà ra ngã ba Chợ Nón đón xe
đi thành phố Đ để mua ma túy. Trước đây, bị cáo đi làm ở thành phố Đ và nghe
01 người làm chung (không nhớ rõ tên tuổi, địa chỉ) nói muốn mua ma túy thì
đến khu vực chợ H, thành phố Đ gặp xe ôm sẽ có. Bị cáo đi đến khu vực chợ
đầu mối H thì xuống xe vào một quán cafe (không rõ tên, địa chỉ cụ thể). Bị cáo
gặp một người xe ôm đang đứng gần đó, hỏi người này có bán ma túy đá không,
người này nói muốn mua bao nhiêu, bị cáo nói là 1.400.000 đồng, người này nói
bị cáo đứng chờ. Khoảng 30 phút sau có một người đàn ông khác đến gặp và nói
tiền đâu, bị cáo đưa cho người này số tiền 1.400.000 đồng, người này đưa cho bị
cáo một gói ma túy được bỏ trong túi ni lông. Bị cáo lấy ma túy cất trong túi
quần rồi đón xe về nhà. Đến tối ngày 11/9/2023, bị cáo lấy ma túy ra sử dụng
một mình tại khu vực rừng cây gần nhà. Số ma túy còn lại bị cáo chia thành 13
phần, mỗi phần được gói trong túi ni lông, dùng băng keo một mặt màu đỏ, một
mặt màu đen quấn bên ngoài rồi giấu 11 gói ma túy trên xe môtô biển số 76N5-
7439 của bị cáo, trong đó 10 gói ma túy dưới yên xe, 01 gói ma túy bên trong
tay cầm bên trái, 02 gói ma túy còn lại bị cáo cất giấu trong túi quần phía trước
bên phải và túi quần phía sau bên trái. Đến khoảng 10 giờ ngày 12/9/2023, bị
cáo điều khiển xe môtô biển số 76N5-7439 đến khu vực rừng thuộc thôn Đ1 xã
C, huyện S để sử dụng ma túy. Khi bị cáo chuẩn bị sử dụng thì bị lực lượng
Công an phát hiện bắt quả tang.
Ngày 12/9/2023, Công an huyện Quế Sơn ra Lệnh khám xét khẩn cấp chỗ ở
của bị cáo tại thôn Đ, xã C, huyện S, tỉnh N. Quá trình khám xét không thu giữ
đồ vật, tài liệu gì.
Ngày 13/9/2023, Công an huyện Quế Sơn ra Quyết định trưng cầu giám
định đối với chất nghi là ma tuý thu giữ của bị cáo. Tại bản kết luận giám định
số 1902/KL-KTHS ngày 15/9/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại thành
phố Đà Nẵng kết luận: chất rắn màu trắng, dạng tinh thể thu giữ trong 13 gói ni
lông của bị cáo là ma tuý, loại methamphetamin, tổng khối lượng là 1,8 gam.
Bản cáo trạng số 01/CT-VKSQS ngày 18 tháng 12 năm 2023 của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng
trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn vẫn giữ
nguyên quan điểm đã truy tố tại bản cáo trạng và căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cũng như nhân thân, các tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử
áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38
Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép
chất ma túy”, xử phạt bị cáo T mức án từ 18 đến 24 tháng tù, thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt
3
tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy
định pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo không tham gia tranh luận và đã thừa nhận toàn bộ
hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ
vụ án và bản cáo trạng của Viện kiểm sát.
Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của
mình và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện
Quế Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Sơn, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ
tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên
tòa, bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc
khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội đối chiếu với các
tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án là phù hợp nên Hội đồng xét xử kết luận:
Khoảng 10 giờ ngày 12/9/2023, tại thôn Đ1, xã C, huyện S, tỉnh N, bị cáo
đã có hành vi tàng trữ 1,8 gam ma túy loại Methamphetamine để sử dụng. Hành
vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c
khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Quế Sơn và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành
quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: hành vi của bị
cáo đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy,
gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Vì vậy,
cần phải xử phạt bị cáo một mức án tương xứng với tính chất và hành vi phạm
tội mà bị cáo gây ra mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4]. Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
của bị cáo thì thấy: bị cáo không có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị
cáo đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự, là lao động chính và đang trực tiếp nuôi
con nhỏ; cha bị cáo được tặng thưởng huân chương chiến công hạng ba. Đây là
các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật
Hình sự nên Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự
4
khoan hồng của pháp luật nhưng nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một
thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
Bị cáo có nghề nghiệp nhưng thu nhập không ổn định nên không áp dụng
hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5]. Những vấn đề liên quan trong vụ án:
Đối với hành vi bán ma túy của 02 người đàn ông tại khu vực chợ đầu mối
H, thành phố Đ không rõ tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo vào ngày
11/9/2023 tại xã C, huyện S, Cơ quan điều tra Công an huyện Quế Sơn đã có
văn bản đề nghị Công an huyện Quế Sơn xử phạt vi phạm hành chính và ngày
20/11/2023 Công an huyện Quế Sơn đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành
chính là phù hợp.
[6]. Về xử lý vật chứng:
- Đối với xe môtô Dream biển số 76N5-7439 do bà Nguyễn Thị N đứng tên
chủ sở hữu. Qua xác minh, bà N đã bán xe này nhưng không nhớ rõ tên tuổi, địa
chỉ người mua. Bị cáo khai mua lại xe này của một người không rõ tên tuổi.
Ngày 12/9/2023, bị cáo sử dụng chiếc xe này vào việc phạm tội nên cần tịch thu
sung ngân sách nhà nước.
- Đối với 01 bì niêm phong bên ngoài có dấu đỏ của Phân viện Khoa học
hình sự tại thành phố Đà Nẵng, chữ ký và tên của Võ Thanh Thiên, Đỗ Văn
Thành chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định cần tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 bì niêm dán kín, bên ngoài có dấu đỏ của Phân viện Khoa học
hình sự tại thành phố Đà Nẵng, chữ ký và tên của Hồ Tiến Dũng, Trần Thị Dung
bên trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định cần tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 túi niêm phong, bên trong có: 01 bật lửa màu trắng có chữ
BIC; 01 chiếc kéo bằng kim loại màu trắng, cán bằng nhựa màu đen; 01 cuộn
băng keo, một mặt màu đỏ, 01 mặt màu đen; 01 gói thuốc hiệu WHITEHORSE
bên trong có một đoạn ống hút bằng nhựa trong suốt, một nắp nhựa màu trắng
trên nắp được đục thủng 02 lỗ; một đoạn ống thuỷ tinh không rõ hình dạng,
không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy;
- Đối với 01 túi niêm phong, bên trong có: 02 đoạn băng keo đen kích
thước (5.3x2.5)cm; 03 đoạn băng keo có một mặt màu đen, một mặt màu đỏ,
kích thước (5.3 x 2.5)cm không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy;
- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu bạc số IMEI:
352032075265741 và IMEI: 35203207526574; bên trong có sim số
0977.032.074 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh có số IMEI
350664635573222 và IMEI 350664637573220 bên trong có sim số
0967.088.547 không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
[7]. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật.
5
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và
Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma
túy”.
Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ (12/9/2023).
2. Về xử lý vật chứng: căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật
Tố tụng Hình sự, tuyên:
- Tịch thu tiêu hủy:
+ 01 bì niêm phong bên ngoài có dấu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự
tại thành phố Đà Nẵng, chữ ký và tên của Võ Thanh Thiên, Đỗ Văn Thành chứa
mẫu vật hoàn trả sau giám định.
+ 01 bì niêm dán kín, bên ngoài có dấu đỏ của Phân viện Khoa học hình sự
tại thành phố Đà Nẵng, chữ ký và tên của Hồ Tiến Dũng, Trần Thị Dung bên
trong chứa mẫu vật hoàn trả sau giám định.
+ 01 túi niêm phong, bên trong có: 01 bật lửa màu trắng có chữ BIC; 01
chiếc kéo bằng kim loại màu trắng, cán bằng nhựa màu đen; 01 cuộn băng keo,
một mặt màu đỏ, 01 mặt màu đen; 01 gói thuốc hiệu WHITEHORSE bên trong
có một đoạn ống hút bằng nhựa trong suốt, một nắp nhựa màu trắng trên nắp
được đục thủng 02 lỗ; một đoạn ống thuỷ tinh không rõ hình dạng;
+ 01 túi niêm phong, bên trong có: 02 đoạn băng keo đen kích thước (5.3 x
2.5)cm; 03 đoạn băng keo có một mặt màu đen, một mặt màu đỏ, kích thước
(5.3 x 2.5)cm.
- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe môtô Dream biển số 76N5-
7439.
- Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu bạc số IMEI:
352032075265741 và IMEI: 35203207526574; bên trong có sim số
0977.032074 và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh có số IMEI
350664635573222 và IMEI 350664637573220 bên trong có sim số
0967.088547.
(Vật chứng hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế
Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 04/01/2024).
3. Án phí hình sự sơ thẩm: căn cứ Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình
sự; Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn)
đồng.
6
4. Về quyền kháng cáo: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày, kể từ ngày tuyên án (26/01/2024). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Quảng Nam;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- VKSND huyện Quế Sơn;
- Chi cục THADS huyện Quế Sơn;
- Văn phòng Công an huyện Quế Sơn;
- Cơ quan CSĐT CA huyện Quế Sơn;
- Sở Tư pháp tỉnh Quảng Nam;
- Bị cáo, người TGTT khác;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trƣơng Thị Sen
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 04/2024/HS-PT ngày 05/02/2024 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm