Bản án số 04/2024/HS-PT ngày 05/02/2024 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2024/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 04/2024/HS-PT ngày 05/02/2024 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Hòa Bình (TAND tỉnh Hòa Bình)
Số hiệu: 04/2024/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 05/02/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 04/2024/HS-PT NGÀY 05/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 05 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 07/2024/TLPT-HS ngày 25 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo Nguyễn Văn Q do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 148/2023/HS-ST ngày 22 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình.

- Bị cáo có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị:

Nguyễn Văn Q, sinh năm 1994 tại H.

Nơi cư trú: Xóm S, xã M, thành phố H, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1967; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 31/8/2023 đến nay; “có mặt”.

- Ngoài ra còn có bị cáo Đinh Văn Nh, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 08/8/2023, Nguyễn Văn Q đến nhà Đinh Văn Nh chơi. Quá trình nói chuyện Nh rủ Q đi trộm cắp tài sản tại Khu du lịch và nghỉ dưỡng K. Q đồng ý, cả hai cầm theo 01 cờ lê, 02 đèn pin, 01 con dao bằng sắt, sau đó Q điều khiển xe máy của Nh nhãn hiệu Honda BKS: 28F6-X chở Nh. Đi đến căn biệt thự của chị Lê Thị Th, Q dừng xe cách khoảng 20m, cả hai đi bộ từ phía sau theo ngách bên trái căn nhà, đến khu vực phòng ngủ thứ nhất. Nh dùng đèn pin chiếu sáng để Q dùng cờ lê tháo 01 cục nóng điều hòa, tháo xong cả hai đi vào bên trong phòng ngủ thứ nhất bằng đường cửa ngách và tháo 1 dàn lạnh điều hòa. Lúc này, Nh dùng dao sắt chặt ống đồng điều hòa nối với cục nóng đã tháo trước đó ở ngoài, tháo xong Q bê dàn nóng lạnh ra gần vị trí để xe trước đó rồi quay lại cùng Nh khiêng cục nóng ra vị trí để xe. Q tiếp tục quay lại và lấy được 1 máy bơm tăng áp màu xanh nhãn hiệu KAZUCO để tại khu vực sân phía sau.

Sau đó, cả hai tiếp tục đi theo ngách bên phải từ sau căn nhà, tại phòng ngủ thứ hai, Q và Nh tiếp tục tháo cục nóng lạnh điều hòa giống phòng ngủ thứ nhất rồi mang ra vị trí để xe. Nh và Q dùng xe máy chở 02 điều hòa đi bán còn 01 máy bơm tăng áp cả hai để lại khu vực sân sau. Bộ điều hòa thứ nhất, Nh và Q bán cho anh Nguyễn Văn D với giá 1.300.000đ, bộ thứ hai bán cho anh Nguyễn Thành N với giá 1.500.000đ. Nh và Q chia nhau mỗi người 1.400.000đ.

Sáng ngày 09/8/2023, Nh một mình quay lại lấy 01 bơm tăng áp do Q đã tháo từ trước rồi đem bán cho một người phụ nữ không quen biết với giá 200.000đ. Số tiền này Nh tự chi tiêu cá nhân.

Lần thứ hai: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 30/8/2023, Q đến nhà Nh chơi sau đó Nh tiếp tục rủ Q đi trộm cắp tài sản tại khu du lịch nghỉ dưỡng thác Th, Q đồng ý và điều khiểu xe máy của Nh nhãn hiệu Honda BKS: 28F6-X chở Nh ngồi sau đem theo xà beng. Khoảng 21 giờ cùng ngày, Q và Nh đi đến căn nhà của anh Hoàng Anh T1, Q dựng xe trước cổng, Nh đi vào thì thấy cổng nhà đã khóa. Sau đó cả hai đi về phía tường bao của căn nhà, cách cổng khoảng 15m rồi trèo vào trong. Sau khi vào trong thì Q đứng đợi, Nh hẹn khi nào Nh gọi thì vào rồi Nh đi về phía bể nước của căn nhà dùng xà beng cậy cửa sắt ở bể nước và lấy 02 máy bơm nước (01 máy màu xanh nhãn hiệu Panasonic và 01 máy màu đỏ nhãn hiệu SHINING). Nh gọi Q đến cùng bê 02 máy bơm nước ra ngoài. Sau đó cả hai tiếp tục đi đến khu vực bếp, Nh dùng xà beng cậy cửa bếp, cả hai lấy được 01 vỏ bình ga nhãn hiệu Petrolimex màu xanh. Sau khi trộm, cả hai dùng xe máy đem chở toàn bộ tài sản đem bán: 01 bình ga bán cho một người đàn ông không quen biết giá 150.000đ, Nh chia cho Q 70.000đ. Sáng ngày 31/8/2023, Nh bán máy bơm nước màu đỏ cho anh Nguyễn Thành N với giá 200.000đ máy bơm nước còn lại Nh gửi tại nhà anh Nguyễn Văn L1.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 190/KL-HĐĐGTS ngày 07/9/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự kết luận: 02 điều hòa nhãn hiệu Daikin màu trắng đã qua sử dụng trị giá 4.000.000đ; 01 bình nóng lạnh nhãn hiệu Rossi màu trắng đã qua sử dụng trị giá 800.000đ; 01 máy bơm nước tăng áp nhãn hiệu KAZUCO màu xanh đã qua sử dụng trị giá 400.000đ.

Tổng giá trị: 5.200.000đ.

- Tại bản kết luận định giá tài sản số 219/KL-HĐĐGTS ngày 20/10/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự kết luận: 01 máy bơm nước đẩy cao nhãn hiệu Panasonic màu xanh đã qua sử dụng trị giá 450.000đ; 01 máy bơm chân không đẩy cao nhãn hiệu SHINING màu đỏ đã qua sử dụng trị giá 500.000đ; 01 vỏ bình ga Petrolimex màu xanh đã qua sử dụng trị giá 250.000đ. Tổng giá trị: 1.200.000đ.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 148/2023/HS-ST ngày 22/12/2023 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội Trộm cắp tài sản. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 31/8/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định tội danh, hình phạt đối với 01 bị cáo khác (không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị), quyết định về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 26/12/2023, bị cáo Nguyễn Văn Q có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Q thay đổi nội dung kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình:

Về thời hạn kháng cáo và thủ tục thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo đã được thực hiện trong thời hạn và đúng hình thức theo quy định.

Về nội dung kháng cáo của bị cáo: Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt: Bị cáo Q thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào các ngày 08/8/2023 và ngày 30/8/2023, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự có hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần vào những thời gian khác nhau, nhưng không thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, có trị giá tài sản chiếm đoạt trên 02 triệu đồng và có trị giá tài sản chiếm đoạt dưới 02 triệu đồng. Căn cứ qui định, bị cáo Q được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” qui định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm, đã nộp toàn bộ số tiền do phạm tội mà có 1.470.000đ theo biên lai thu tiền số 0000062 ngày 30/01/2024 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố H. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo (xử phạt thời hạn phạt tù bằng với thời gian bị cáo đã bị tạm giam - 05 tháng 05 ngày).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo kháng cáo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

2.1. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy có đủ căn cứ để xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

2.2. Bị cáo Q thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào các ngày 08/8/2023 (giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.400.000đ) và ngày 30/8/2023 (giá trị tài sản chiếm đoạt là 1.200.000đ), bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có hành vi trộm cắp tài sản nhiều lần vào những thời gian khác nhau nhưng không thực hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian, có trị giá tài sản chiếm đoạt trên 02 triệu đồng và có trị giá tài sản chiếm đoạt dưới 02 triệu đồng. Căn cứ vào Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017, Nghị quyết số 01/2018/ NQ-HĐTP ngày 24/4/2018, Công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao thì không cộng giá trị tài sản của các lần trộm cắp có giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 02 triệu để xác định là hậu quả thiệt hại của tội phạm. Tuy nhiên, đó là thiệt hại để xem xét trách nhiệm bồi thường dân sự đối với người có hành vi phạm tội, do đó bị cáo Q được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” qui định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

2.3. Bị cáo là đồng phạm trong vụ án bị Nh rủ rê, lôi kéo nên đã có hành vi phạm tội, bị cáo sau khi phạm tội đã đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sức khỏe bị cáo đau yếu (đã bị chấn thương sọ não vào năm 2020), tại cấp phúc thẩm, bị cáo đã nộp toàn bộ số tiền do phạm tội mà có 1.470.000đ (biên lai thu tiền số 0000062 ngày 30/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hòa Bình).

2.4. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết răng nặng, do vậy có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (thời hạn phạt tù bằng với thời gian bị cáo đã bị tạm giam) để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, phù hợp với đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[4] Về án phí: Bị cáo kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Q, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 148/2023/HS-ST ngày 22 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Hòa Bình (Giảm hình phạt cho bị cáo). Cụ thể:

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;Điều 54; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Q phạm tội Trộm cắp tài sản. Xử phạt Nguyễn Văn Q 05 tháng 05 ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 31/8/2023 (thời hạn phạt tù bằng với thời gian bị cáo đã bị tạm giam).

2. Căn cứ khoản 5 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Quyết định trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Văn Q.

3. Bị cáo Nguyễn Văn Q đã nộp đủ số tiền truy thu 1.470.000đ (một triệu bốn trăm bảy mươi nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0000062 ngày 30/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H, tỉnh Hòa Bình.

4. Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Văn Q phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật từ ngày tuyên án (05/02/2024)./.

Tải về
Bản án số 04/2024/HS-PT Bản án số 04/2024/HS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất