Bản án số 10/2024/HS-ST ngày 01/03/2024 của TAND huyện Cần Đước, tỉnh Long An về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 10/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 10/2024/HS-ST ngày 01/03/2024 của TAND huyện Cần Đước, tỉnh Long An về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Cần Đước (TAND tỉnh Long An)
Số hiệu: 10/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/03/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Tr?m c?p xe mô tô
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CẦN ĐƯỚC, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại trụ Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2024/TLST-HS, ngày 16 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2024/QĐXXST-HS, ngày 15 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước đối với bị cáo:

Họ tên: Nguyễn Hoàng P (Tên gọi khác: Phúc Đ), sinh năm: 1993; Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở hiện tại: Ấp B, xã P, huyện C, tỉnh Long An (Bị cáo có mặt).

Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1965 và bà Phạm Thị T, sinh năm: 1967; Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị T1, sinh năm: 1995 và có 02 người con, sinh năm 2016 và năm 2018.

Tiền án: Không Tiền sự:

- Ngày 10/7/2020, bị Công an xã P, huyện C tỉnh Long An xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy với số tiền 750.000đ (Chấp hành xong ngày 14/7/2020).

- Ngày 21/8/2020, bị Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Long An quyết định áp dụng biện pháp giáo dục xã, phường, thị trấn (Chấp hành xong ngày 22/11/2020).

- Ngày 11/3/2021, bị Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng (Chấp hành xong ngày 25/01/2023).

- Ngày 28/6/2023, bị Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (Bị cáo chưa chấp hành).

Nhân thân:

- Ngày 21/5/2013, bị Công an huyện T, tỉnh Long An quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.000.000đ về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác (Chấp hành xong 26/5/2014).

- Ngày 30/11/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Cần Đước, tỉnh Long An xử phạt 9 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 48/2011/HSST, ngày 30/11/2011 của Tòa án nhân dân huyện Cần Đước (Chấp hành xong ngày 21/3/2014).

- Ngày 18/9/2012, bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 197/HSST, ngày 18/9/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An (Chấp hành xong ngày 21/3/2014).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện C từ ngày 11/11/2023 đến nay.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị R, sinh năm: 1968; Địa chỉ: Ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Long An (Có đơn xin vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Thái Văn M, sinh năm: 1960; Địa chỉ: Khu phố C, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt không lý do).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung 3 vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 11/11/2023, bị cáo Nguyễn Hoàng P đi bộ ngang nhà ông Nguyễn Thanh N ở Ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Long An thì P phát hiện có 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển số 62V2-X của bà Nguyễn Thị R đang dựng trước sân. P thấy chìa khóa gắn trên xe, cửa rào không khóa nên P nảy sinh ý định lén lút chiếm đoạt xe môtô nêu trên làm phương tiện đi lại. Sau đó, P lén lút đi vào sân, lên xe nổ máy chạy ra đến cửa rào thì bị bà R phát hiện truy hô. Lúc này, có anh Nguyễn Minh T2 cùng người dân đã truy đuổi, bắt giữ P cùng tang vật và giao nộp cho Công an. Qua làm việc P đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.

Theo kết luận định giá tài sản số 28/KL-HĐĐGTX, ngày 13/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản huyện C, tỉnh Long An thì 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu đen, biển kiểm soát 62V2-X, số khung 2199Y-167591, số máy C12E-1368454, theo giấy chứng nhận đăng ký xe trên được đăng ký lần đầu vào ngày 20/8/2009, mất ngày 11/11/2023 có giá trị là 3.700.000đ.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tạm giữ: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, loại Wave Alpha, màu đen, biển kiểm soát 62V2- X, bị bể bửng xe bên phải. Ngày 02/01/2014, Cơ quan điều tra xử lý vật chứng trả lại xe môtô trên cho bị hại Nguyễn Thị R.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì thêm.

Cáo trạng số 11/CT-VKSCĐ, ngày 15 tháng 01 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Đước đã truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng P về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hiện quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng P từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

4 Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hoàng P 45 ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu nên không xem xét.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Đước, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng P khai nhận hành vi như cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cần Đước đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, của người làm chứng; phù hợp với biên bản tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hồi 16 giờ 00 phút ngày 11 tháng 11 năm 2023. Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 11/11/2023, tại nhà của ông Nguyễn Thanh N, địa chỉ: Ấp F, xã P, huyện C, tỉnh Long An, bị cáo Nguyễn Hoàng P đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe môtô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, biển số 62V2-X của bà Nguyễn Thị R trị giá 3.700.000đ.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại mà còn gây tâm lý hoang mang, lo lắng, làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, ai xâm phạm đến sẽ bị pháp luật xử lý. Tuy nhiên do bị cáo tham lam, lười lao động nên bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu để thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt. Bị cáo 5 là người có đủ năng lực hành vi dân sự, có nhân thân xấu, nhiều lần bị Tòa án xét xử, có nhiều tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo đang trong thời gian chờ đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc. Vì vậy bị cáo phải biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Hoàng P phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

……………”

[4] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo có ông nội tên Nguyễn Văn Đ1 là liệt sĩ, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy phù hợp, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian với mức hình phạt tương xứng mới có tác dụng giáo dục bị cáo, đề cao tính nghiêm minh của pháp luật và phòng ngừa chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng P (Tên gọi khác: Phúc Đ) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 38, 50 của Bộ luật hình sự.

6 Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng P 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam là ngày 11/11/2023.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hoàng P 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng P chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ. 

Tải về
Bản án số 10/2024/HS-ST Bản án số 10/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất