Bản án số 28/2024/HS-ST ngày 31/01/2024 của TAND huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 28/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 28/2024/HS-ST ngày 31/01/2024 của TAND huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Phù Yên (TAND tỉnh Sơn La)
Số hiệu: 28/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 31/01/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Lường Văn N trộm cắp chiếc xe đạp điện của cháu Đinh Thị Thanh L
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN PHÙ YÊN
TỈNH SƠN LA
Bản án số: 28/2024/HS-ST
Ngày 31-01-2024
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ YÊN, TỈNH SƠN LA
Tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Yên:
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Nam.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Đinh Công Ó, bà Thị Bống (giáo viên đã nghỉ
hưu).
- Thư phiên tòa: Thị Bích Ngọc - Thư Tòa án nhân dân huyện Phù
Yên, tỉnh Sơn La.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La tham gia
phiên tòa: Bà Đinh Thị Hằng - Kiểm sát viên.
Tại điểm cầu Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Yên:
- Người tiến hành tố tụng:
Kiểm sát viên: Nguyễn Thị Hân.
- Người tham gia tố tụng khác:
Cán bộ, chiến sỹ thuộc sở giam giữ: Ông Đinh Văn Uyên ông Hoàng Văn
Đông.
Ngày 31/01/2024, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân huyện Phù Yên
điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Phù Yên xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hình sự thụ số: 33/2024/TLST-HS ngày 05/01/2024, theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số: 29/2024/QĐXXST- HS ngày 15/01/2024 đối với bị cáo:
Lường Văn N, sinh ngày 12/02/1969 tại huyện P, tỉnh Sơn La; nơi trú
chỗ hiện nay: Bản T, G, huyện P, tỉnh Sơn La; số định danh cá nhân:
014069xxxxxx; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 04/12; dân tộc:
Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lường Văn O
(đã chết) Thị P; không vợ 03 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ
nhất sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không ; nhân thân: Ngày 09/02/1987, bị Uỷ
ban nhân dân tỉnh Sơn La ra quyết định đưa đi tập trung cải tạo tại Trại giam Yên
Hạ, Cục C10, Bộ Công an về hành vi Trộm cắp Cờ bạc theo Quyết định số 52/QĐ;
bbắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/11/2023 cho đến nay; mặt tại điểm cầu thành
phần.
2
Tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân huyện P:
- Bị hại: Cháu Đinh Thị Thanh L, sinh ngày 23/3/2011; nơi trú: Bản T,
G, huyện P, tỉnh Sơn La; vắng mặt.
- Người đại diện hợp pháp của bhại: ChĐinh Thị N1, sinh năm 1983; nơi cư
trú: Bản T, xã G, huyện P, tỉnh Sơn La; vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Quàng Văn T, sinh năm 1994; nơi cư trú: Tiểu khu x, thị trấn P, huyện
P, tỉnh Sơn La; vắng mặt .
2. Chị Lường Thị X, sinh năm 1999; nơi trú: Bản N, xã T, huyện P, tỉnh n
La; mặt.
- Ngưi làm chng: Anh Vì n Tr, sinh năm 1986; nơi trú: Bn B, P, huyn
Ph, tỉnh n La; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Khoảng 04 giờ ngày 06/11/2023, Lường Văn N đi bộ một mình ra khu vực cánh
đồng bản T, xã G, huyện P, tỉnh Sơn La. Khi đi qua nhà cháu Đinh Thị Thanh L thì
thấy 01 chiếc xe đạp điện màu xanh đen nhãn hiệu AIMIA đang dựng ở sân. N nảy
sinh ý định trộm cắp chiếc xe đạp để bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Sau khi quan sát
thấy cửa nhà cháu L mở xung quanh không người nên N đi thẳng vào trong
nhà để tìm chìa khoá xe đạp điện. Khi vào trong nhà, N nhìn thấy chìa khoá trên nóc
tủ gỗ. N cầm lấy rồi điều khiển xe đi vào thị trấn P tìm chỗ bán. Do còn sớm nên N
ngồi chơi ở Công viên 02/9. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, N đi đến quán mua bán
xe của anh Quàng Văn T để gạ bán chiếc xe đạp điện với giá 4.000.000 đồng.
Tuy nhiên anh T không mua cho rằng bán giá cao so với thị trường. Để tránh b
nghi ngờ là xe trộm cắp, N đã gọi điện cho cháu ruột là Vì Văn Tr với nội dung “
nữa có người gọi điện hỏi có phải xe của cháu bán cho cậu không thì bảo đúng rồi
nhé”, Tr đáp “Vâng. N tiếp tục ngồi uống nước ở quán sửa xe anh T đến khoảng 09
giờ thì N bảo với anh Txe này N mua lại của đứa cháu tên Tr, nếu không tin thì
T gọi điện thoại cho Tr để xác nhận, đồng thời N đưa số điện thoại 0377.769.957
cho T. T gọi điện thoại cho Tr được xác nhận là xe của Tr bán cho N. Sau khi xác
minh xong, T mua chiếc xe với giá 3.700.000 đồng. Bán xe xong, N đi bộ về và chi
tiêu hết 95.000. Còn lại 3.605.000 N cất giữ trong người.
Ngày 07/11/2023, Công an xã G đã thu giữ 3.605.000 đồng của Lường Văn N,
quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã thu giữ chiếc xe đạp điện tại
quán anh Quàng Văn T. Ngày 21/11/2023, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc
xe đạp điện cho cháu L. Ngày 01/01/2024 chị Lường Thị X con gái của N đã tự
nguyện bồi thường cho anh T số tiền 3.700.000 đồng.
Kết luận định giá tài sản số: 27/KLĐGTS-ĐGTS ngày 09/11/2023 của Hội
đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Phù n kết luận: “01 chiếc xe đạp
3
điện màu xanh đen, nhãn hiệu AIMIA số động 48V350WWCXL20230 680627, sản
xuất năm 2023, đã qua sử dụng giá trị đến thời điểm định giá 6.600.000 đồng”.
Kết luận giám định số: 2563/KL-KTHS, ngày 24/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình
sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật. Hoàn lại
toàn bộ đối tượng gửi giám định”.
Quá trình điều tra, bcáo khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện. Cháu L
chị N1 không yêu cầu bị cáo phải bồi thường khoản chi phí nào khác và đề nghị Toà
án xét xử bị cáo theo đúng quy định của pháp luật, anh Quàng Văn T không yêu cầu
bị cáo bồi thường.
Cáo trạng số: 82/CT-VKS ngày 29/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện
Phù Yên, tỉnh Sơn La, truy tố bị cáo Lường Văn N về tội Trộm cắp tài sản theo
khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị X đề nghị
Tòa án trả lại chị số tiền 3.605.000 đồng thu giữ của bị cáo vì chị đã thay bị cáo bồi
thường cho anh Quàng Văn T, không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả số tiền 95.000
đồng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La giữ nguyên
quan điểm truy tố bị cáo về tội Trộm cắp tài sản và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều
65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị o Lường Văn N t 9 đến 12 tháng nhưng cho
hưởng án treo, thi gian th thách từ 18-24 tháng. Không áp dụng hình phạt bổ sung
(phạt tiền) đối với bị cáo.
- Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhn vic b hại người có quyền lợi liên quan
anh Quàng Văn T không yêu cu bị cáo phi bi thường thêm khon tin nào khác.
Ghi nhn ch Lường Thị X đã bồi thường cho anh Quàng Văn T s tin 3.700.000
đồng. Trả lại chị X 3.605.000 đồng ghi nhn việc chị X không yêu cầu bị cáo
hoàn trả 95.000 đồng.
- Về vật chứng của vụ án: Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an
huyện Phù Yên đã trả lại cho cháu Đinh Thị Thanh L 01 chiếc xe đạp điện màu xanh
đen, nhãn hiệu AIMIA; trả cho chị Lường Thị X 3.605.000 đồng.
- V án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo người quyền lợi liên quan chị Lường Thị X nhất trí với luận tội
của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng, bcáo đề nghị Hội đồng xét xử xem
xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ o c tài liệu trong hồ vụ án đã đưc tranh
tụng tại phn tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan anh Quàng Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đơn đề nghị
xét xử vắng mặt. Người làm chứng anh Vì Văn Tr vắng mặt không có lý do mặc
đã được triệu tập hợp lệ. Xét thấy việc bồi thường với bị hại và anh Quàng Văn T đã
4
thực hiện xong, sự vắng mặt của bị hại, anh T người làm chứng không gây trở
ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292 Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội
đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người tham gia tố tụng nêu trên.
[2] V hành vi, quyết định tố tng: quan cảnh t điều tra Công an huyện P
n, Điều tra viên, Vin kiểm t nhân n huyn Phù Yên, Kiểm sát viên trong quá
trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình t, thủ tục quy định của
Bộ luật Tố tụngnh s. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại nời có
quyền lợi, nghĩa vụ ln quan không ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, c hành vi, quyết
định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, ngưi tiến nh tố tụng đã thực hiện đều
hợp pháp.
[3] Vhành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi lén lút chiếm
đoạt chiếc xe đạp điện trị giá 6.600.000 đồng của cháu Đinh Thị Thanh L để có tiền
chi tiêu. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại quan điều tra và tại phiên tòa hoàn
toàn tự nguyện đúng với sự việc bị cáo đã thực hiện. Lời khai của bị cáo thống
nhất trong qtrình điều tra, truy tố xét xử, phù hợp với đơn trình báo, đơn đề
nghị, lời khai của bị hại, lời khai của người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai
của người chứng kiến và người làm chứng, kết luận định giá tài sản, biên bản khám
nghiệm hiện trường. Bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nhận thức được việc
chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật. Do đó, Viện kiểm
sát nhân dân huyện Phù Yên truy tố bị cáo vtội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều
173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo
không tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra tại
phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình, bị cáo đã
nhờ người thân bồi thường toàn bộ thiệt hại. Ngày 09/02/1987, bị cáo bị đưa đi giáo
dục cải tạo theo quy định tại Nghị quyết số 49-NQ/TVQH ngày 20/6/1961 của y
ban Thường vụ Quốc hội về việc tập trung giáo dục cải tạo có thời hạn đối với các
phần tphản cách mạng ngoan cố lưu manh chuyên nghiệp. Đây tình tiết về
nhân thân của bị cáo nhưng bị cáo chưa bị xét xử nên đủ căn cứ xác định bị cáo
phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do vậy, bị cáo được áp dụng
các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, i khoản 1 Điều 51
Bộ luật Hình sự.
[5] Về tính chất, mức đhành vi phạm tội và trách nhiệm hình sự: Hành vi của
bị cáo đã trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác. Tuy
nhiên, xét thấy sau khi đi cải tạo trở về địa phương năm 1988, bị cáo chấp hành chính
sách, pháp luật thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân; bcáo phạm tội ít nghiêm
trọng; nơi cư trú ràng; 3 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; khả năng
tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương. Do vậy, căn cứ tính chất, mức độ
hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng
xét xử xét thấy không cần thiết phải cách L bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng
hình phạt nhưng cho hưởng án treo cũng đảm bảo giáo dục bị cáo trở thành người
ích cho xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Thời gian giam giữ
đối với bị cáo (từ ngày 09/11/2023 đến ngày xét xử thẩm) sẽ được khấu trừ khi b
5
cáo bị áp dụng hình phạt . Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra kết quả
tranh tụng tại phiên tòa xác định bcáo không công việc thu nhập ổn định,
không có tài sản có giá trị lớn nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối
với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được trả lại tài sản. Chị Lường Thị X đã
bồi thường cho người quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Quàng Văn T số tiền
3.700.000 đồng. Bị hại anh T tự nguyện không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm
nên cần ghi nhận.
[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản bị chiếm đoạt cho bị
hại phù hợp với quy định của Bộ luật Hình sự. Chị Lường Thị X yêu cầu được trả
lại cho chị số tiền 3.605.000 đồng thu giữ của bị cáo, đối với số tiền còn thiếu
95.000 đồng chị X không yêu cầu bị cáo hoàn trả. Xét thấy số tiền 3.605.000 đồng
tiền bị cáo bán tài sản trộm cắp, số tiền này phải được trả lại cho người mua tài
sản là anh Quàng Văn T nhưng chị X đã trả thay cho bị cáo nên yêu cầu nêu trên của
chị X là có căn cứ. Việc chị X không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả 95.000 đồng còn
thiếu là tự nguyện nên cần chấp nhận.
[8] Đối với Văn Tr người được bị cáo nhờ đưa thông tin không đúng sự
thật để bị cáo bán tài sản trộm cắp cho anh T, xét thấy việc đưa ra thông tin sai của
Tr do bị cáo dặn nhờ, Tr không biết việc bị cáo trộm cắp tài sản không được
hưởng lợi nên không có dấu hiệu tội phạm.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị
cáo, bị hại, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan quyền kháng cáo theo quy định
của pháp luật.
[10] Trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về
một tội phạm khác.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn c khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật
Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lường Văn N phạm tội Trộm cắp tài sản. Xử phạt bị cáo
Lường Văn N 12 (mười hai) tháng nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách
là 24 (hai mươi tư) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 31/01/2024). Không
áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Căn cứ khoản 4 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình s, trả tự do cho bị cáo ngay tại
phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã G, huyện Phù Yên, tỉnh n La giám sát,
giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, người được
hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án thể quyết định buộc
người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án
treo. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi trú hoặc nơi làm việc thì
quan, tổ chức giám sát, giáo dục thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi
hành án hình sự.
6
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ các Điều 584, 585 và 589 Bộ luật Dân sự;
Điều 48 Bộ luật Hình sự.
- Ghi nhận việc bị hại cháu Đinh Thị Thanh L đã nhận lại tài sản chiếc xe
đạp điện u xanh đen, nhãn hiệu AIMIA không yêu cầu bị o trách nhiệm
bồi thường về dân sự.
- Ghi nhận việc chị ờng Thị X đã bồi thường cho anh Quàng Văn T 3.700.000
đồng (ba triệu bẩy trăm nghìn đồng), anh Quàng Văn T không yêu cầu bị cáo bồi
thường gì thêm, chị Lường Thị X không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 95.000 đồng
(chín mươi lăm nghìn đồng).
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự.
- Ghi nhận việc quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phù Yên đã trả lại cho
cháu Đinh Thị Thanh L chiếc xe đạp điện màu xanh đen, nhãn hiệu AIMIA (theo
Quyết định xvật chứng số: 29/QĐ-CQCSĐT ngày 21/11/2023 của quan cảnh
sát điều tra Công an huyn P Yên).
- Trả cho chị Lường Thị X số tiền 3.605.000 (Ba triệu sáu trăm lẻ năm nghìn
đồng).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản
1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lường Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm
là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị
hại, người đại diện hợp pháp của bị hại người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
bản án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Sơn La;
- VKSND tỉnh Sơn La;
- VKSND huyện Phù Yên;
- Công an huyện Phù Yên;
- CQ hồ sơ nghiệp v CA huyện Phù Yên;
- Chi cục THADS huyện Phù Yên;
- Sở Tư pháp tỉnh Sơn La;
- Bị cáo; bhại; người đại diện hợp pháp của
bị hại; người có QLNVLQ;
- UBND xã G;
- Lưu: Hồ sơ, VP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Văn Nam
Tải về
Bản án số 28/2024/HS-ST Bản án số 28/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất