Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 của TAND huyện Ba Vì, TP. Hà Nội về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 64/2021/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 64/2021/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 của TAND huyện Ba Vì, TP. Hà Nội về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Ba Vì (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 64/2021/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 08/06/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 64/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 08 tháng 06 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, Hà Nội. Toà án nhân dân huyện B đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 44/2021/HSST ngày 27/04/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2021/QĐXXST- HS ngày 26/05/2021 đối với các bị cáo :
1. Trần Anh T, sinh năm: 1992; Nơi cư trú: Phố Hoàng Sơn, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Con ông: Trần Công Th, sinh năm: 1947; con bà: Phùng Thị AC, sinh năm: 1962; Vợ, con: Chưa có;Tiền sự: Không; Tiền án: có 01. Bản án số 18, ngày 15/5/2018 TAND huyện TS xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma TUy”. Chấp hành xong hình phạt tù 28/4/2020. Án phí hình sự chấp hành xong ngày 18/7/2018. Nhân thân: - Bản án số 07, ngày 01/2/2013 TAND huyện TS, tỉnh Phú Thọ xử phạt 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù 01/4/2013. Án phí chấp hành xong tháng 5/2013.
- Bản án số 100, ngày 11/9/2014 TAND huyện SD, tỉnh Tuyên Quang xử phạt 08 tháng tù về tội “ trộm cắp tài sản”. Án phí và phần dân sự đã chấp hành xong.
- Ngày 15/3/2011 Công an huyện PY, tỉnh Sơn La xử phạt hành chính với số tiền 2000.000 đồng về hành vi “hủy hoại tài sản của người khác”. Chấp hành xong ngày 15/3/2011.
Bị cáo bị tạm giữ từ 12/10/2020 đến 13/10/2020 được trả tự do. Sau đó bị cáo bị tạm giữ từ 01/02/2021 tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Văn H, sinh năm: 1991; Nơi cư trú: Thôn Phú Xuyên 1, xã P, huyện B, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm: 1965; con bà: Phùng Thị S, sinh năm: 1967; Vợ: Lê Thị D, con: có 02 con lớn sinh năm 2015, nhỏ 07 tháng tuổi; Tiền sự: Không; Tiền án: 01. Bản án số 01, ngày 12/1/2018 TAND huyện B xử phạt 36 tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích”. Đã chấp hành xong hình phạt, án phí và dân sự. Ngày 07/1/2020 chấp hành xong án phạt tù. Nhân thân: Ngày 07/1/2016 Công an huyện B xử phạt vi phạm hành chính 2.500.000 đồng về hành vi “ xâm hại sức khỏe của người khác”. Chấp hành xong ngày 01/2/2016.
Bị cáo đang bị tạm giam từ ngày 31/01/2021 tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại :
1. Anh Đoài Minh HO, sinh năm 1983;
2. Bà Phùng Thị TU, sinh năm 1963;
Đều trú tại : Thôn Ngọc Nhị, xã C, huyện B, thành phố Hà Nội.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Văn BI, sinh năm 1965 (Bố H );
Trú tại : Thôn Phú xuyên 1, xã P, huyện B, thành phố Hà Nội.
(Ông BI có mặt, Bà TU và ông HO vắng mặt )
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được thể hiện như sau:
Khoảng 19 giờ, ngày 12/10/2020, Nguyễn Văn H và Trần Anh T cùng rủ nhau đi trộm cắp chó để bán lấy tiền tiêu xài. Khi đi H và T đã chuẩn bị 01 số công cụ phục vụ cho việc trộm cắp chó gồm: 01 súng tự chế; 01 (một) bình ắc quy loại 12V gắn với một đoạn giây điện và mũi tên kép tự chế; 01 cuộn băng dính màu đen, 02 bao tải màu trắng. Sau đó, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, BKS: 30P3- 0712 chở T ngồi phía sau đi đến khu vực thôn Ngọc Nhị, xã C, huyện B, thành phố Hà Nội tìm kiếm chó của các hộ dân để trộm cắp. Khi đi đến khu vực cổng nhà bà Phùng Thị TU, H phát hiện 01 con chó loại chó ta, lông màu vàng trọng lượng 20kg là chó của gia đình bà TU. T ngồi trên xe dùng súng tự chế bắn trúng làm con chó bị bất tỉnh. Sau đó T xuống xe dùng băng dính màu đen quấn mồm, cho con chó vào bao tải và để ở giá đèo hàng giữa xe. Sau khi trộm cắp được con chó trên, H điều khiển xe máy chở T tiếp tục đi tìm chó để trộm cắp. Khi đi đến khu vực cổng nhà anh Phùng Viết S, H phát hiện thấy có một con chó đực, màu lông đen nặng 18kg là chó của gia đình anh Đoài Minh HO, T ngồi trên xe dùng súng bắn điện bắn làm con chó bất tỉnh. T xuống ôm con chó lên xe máy. Cùng lúc này, anh Phùng Viết Sơn đã phát hiện hành vi trộm cắp chó của T và H đã hô hoán quần chúng nhân dân để bắt giữ các đối tượng. H điều khiển xe máy chở T bỏ chạy. Anh Sơn đã điều khiển xe máy đuổi theo, vừa đuổi anh Sơn vừa hô hào quần chúng nhân dân hỗ trợ để bắt giữ. Chạy được khoảng 300 mét thì xe máy của H và T bị đổ, ngã. H và T đã bỏ lại xe máy và 02 con chó vừa trộm được cùng toàn bộ số công cụ gây án rồi bỏ chạy. Anh Sơn cùng quần chúng nhân dân đã đuổi theo và bắt giữ được Trần Anh T, còn Nguyễn Văn H đã chạy trốn thoát. Sau khi bắt giữ đối tượng và thu giữ toàn bộ tang vật, anh Sơn đã bàn giao đối tượng cùng toàn bộ số vật chứng cho Công an xã C. Công an xã C đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và bàn giao cho Cơ quan CSĐT - Công an huyện B để xử lý theo quy định pháp luật.
Tang vật thu giữ:
- 01 (một) con chó, loại chó ta, lông màu đen, trọng lượng 18kg.
- 01 (một) con chó, loại chó ta, lông màu vàng, trọng lượng 20kg.
- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu sơn đỏ đen, BKS: 30P3- 0712; số khung: RLC55C640AY342505; số máy: 5C64 – 342511.
- 01 (Một) báng súng bắn tên tự chế bằng gỗ màu nâu kích thước (11 x 1) cm, có dây buộc bằng cao su.
- 02 (Hai) bao tải màu trắng kích thước (70 x 115) cm.
- 01 (Một) cuộn băng dính màu đen.
- 01 (Một) bình ắc quy 12V, kích thước (13 x 12,8) cm được cuốn băng dính màu đen xung quanh và có dây điện đấu nối dài 2,9 mét nối giữa dây điện với một đoạn gỗ diện (13 x 1) cm, phần đầu đoạn gỗ có hai vạt đầu nhọn bằng kim loại kích thước 0,7cm.
Ngày 28/10/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã ra Yêu cầu định giá tài sản đối với 02 con chó nêu trên.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số: 123 ngày 12/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B, kết luận:
+ 18kg chó ta x 80.000đ/kg = 1.440.000 đồng + 20kg chó ta x 80.000.000đ/kg = 1.600.000 đồng Tổng giá trị là: 3.040.000 đồng (Ba triệu không trăm bốn mươi ngàn đồng chẵn).
* Về vật chứng vụ án:
- Đối với vật chứng: 01 (một) con chó, loại chó ta, lông màu đen, trọng lượng 18kg và 01 (một) con chó, loại chó ta, lông màu vàng, trọng lượng 20kg. Cơ quan CSĐT Công an huyện B đã trả lại cho chủ sơ hữu.
- Đối với các vật chứng:
+ 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu sơn đỏ đen, BKS: 30P3 – 0712; số khung: RLC55C640AY342505; số máy: 5C64 – 342511.
+ 01 (Một) báng súng bắn tên tự chế bằng gỗ màu nâu kích thước (11 x 1) cm, có dây buộc bằng cao su.
+ 02 (Hai) bao tải màu trắng kích thước (70 x 115) cm.
+ 01 (Một) cuộn băng dính màu đen.
+ 01 (Một) bình ắc quy 12V, kích thước (13 x 12,8) cm được cuốn băng dính màu đen xung quanh và có dây điện đấu nối dài 2,9 mét nối giữa dây điện với một đoạn gỗ diện (13 x 1) cm, phần đầu đoạn gỗ có hai vạt đầu nhọn bằng kim loại kích thước 0,7cm.
Chuyển các vật chứng nêu trên đến Chi cục thi hành án dân sự huyện B để giải quyết theo quy định của pháp luật.
* Về dân sự:
Chủ sở hữu hợp pháp của tài sản là anh Đoài Minh HO và bà Phùng Thị TU đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu đề nghị gì về dân sự trong vụ việc trên.
Tại bản cáo trạng số: 45/CT-VKS ngày 27 tháng 04 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện B để xét xử bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B tham gia phiên tòa phát biểu luận tội, giữ nguyên nội dung như cáo trạng truy tố. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Về hình phạt, đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, Điều 51; điểm h, khoản 1 Điều 52, Điều 38 BLHS, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Anh T từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 12 tháng đến 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo. Về vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) báng súng bắn tên tự chế bằng gỗ màu nâu kích thước (11 x 1)cm, có dây buộc bằng cao su; 02 (Hai) bao tải màu trắng kích thước (70 x 115)cm; 01 (Một) cuộn băng dính màu đen; 01 (Một) bình ắc quy 12V, kích thước (13 x 12,8)cm được cuốn băng dính màu đen xung quanh và có dây điện đấu nối dài 2,9 mét nối giữa dây điện với một đoạn gỗ diện (13 x 1)cm, phần đầu đoạn gỗ có hai vạt đầu nhọn bằng kim loại kích thước 0,7cm.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn BI: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu sơn đỏ đen, BKS: 30P3 - 0712; số khung: RLC55C640AY342505; số máy: 5C64 – 342511.
Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh Đoàn Minh HO, chị Phùng Thị TU toàn bộ số tài sản mà T và H đã lấy trộm gồm: 01 (một) con chó, loại chó ta, lông màu đen, trọng lượng 18kg và 01 (một) con chó, loại chó ta, lông màu vàng, trọng lượng 20kg. Anh Đoàn Minh HO, chị Phùng Thị TU không yêu cầu gì về mặt dân sự trong vụ án này. Nên không đề nghị giải quyết.
Căn cứ vào các chứng cứ và tại liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa ;
Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện B thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Xét thấy lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà hôm nay phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, các nhân chứng và biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu của CQĐT và các tài liệu chứng cứ thu thập được đã có trong hồ sơ vụ án. Như vậy HĐXX có đủ cơ sở xác định cơ sở xác định: Vào hồi 19 giờ ngày 12/10/2020 do cần tiền tiêu xài Trần Anh T và Nguyễn Văn H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của nhà anh HO, chị TU. Số tài sản mà T và H đã trộm cắp được là 02 con chó với tổng khối lượng 36kg trị giá 3.040.000 đồng (Ba triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng).
Hành vi trộm tài sản của bị cáo T và H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.
Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo Trần Anh T và Nguyễn Văn H thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu hợp pháp tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự của địa phương. Do vậy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Xét vai trò đồng phạm của các bị cáo: Hai bị cáo T và H cùng rủ nhau đi trộm cắp tài sản, T là người chủ động chuẩn bị công cụ phạm tội từ trước, Xe máy do H chuẩn bị, sau đó các bị cáo đã cùng nhau thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của bị hại để bán lấy tiền tiêu xài. Do vậy, cần đánh giá vai trò đồng phạm của T và H là ngang nhau. Đây là đồng phạm giản đơn không phân công nhiệm vụ rõ ràng cho giữa các bị cáo.
Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H đều có một tiền án như phần căn cước, lý lịch đã nêu (chưa được xóa án tích) nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được quy định theo điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xét bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H đều có nhân thân rất xấu.
Xét tính chất của vụ án, qua phân tích các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Tại khoản 5, Điều 173 BLHS 2015 còn quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Xét thấy bị cáo T, H có điều kiện kinh tế khó khăn nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.
[2].Về dân sự: Cơ quan điều tra đã trao trả cho anh Đoàn Minh HO, chị Phùng Thị TU toàn bộ số tài sản mà T và H đã lấy trộm gồm: 01 (một) con chó, loại chó ta, lông màu đen, trọng lượng 18kg và 01 (một) con chó, loại chó ta, lông màu vàng, trọng lượng 20kg. Anh Đoàn Minh HO, chị Phùng Thị TU không yêu cầu gì về mặt dân sự trong vụ án này. Nên không xem xét giải quyết.
[3]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) báng súng bắn tên tự chế bằng gỗ màu nâu kích thước (11 x 1)cm, có dây buộc bằng cao su; 02 (Hai) bao tải màu trắng kích thước (70 x 115)cm; 01 (Một) cuộn băng dính màu đen; 01 (Một) bình ắc quy 12V, kích thước (13 x 12,8)cm được cuốn băng dính màu đen xung quanh và có dây điện đấu nối dài 2,9 mét nối giữa dây điện với một đoạn gỗ diện (13 x 1)cm, phần đầu đoạn gỗ có hai vạt đầu nhọn bằng kim loại kích thước 0,7cm.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn BI: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu sơn đỏ đen, BKS: 30P3 – 0712; số khung RLC55C640AY342505; số máy 5C64-342511.
[4].Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bị cáo Trần Anh T , bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Áp dụng: Khoản 1, Điều 173; Điểm s, khoản 1, Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38 BLHS năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Trần Anh T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 01/02/2021. Được trừ thời gian tạm giữ từ 12/10/2020 đến 13/10/2020.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 31/01/2021.
3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS.
Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) báng súng bắn tên tự chế bằng gỗ màu nâu kích thước (11 x 1)cm, có dây buộc bằng cao su; 02 (Hai) bao tải màu trắng kích thước (70 x 115)cm; 01 (Một) cuộn băng dính màu đen; 01 (Một) bình ắc quy 12V, kích thước (13 x 12,8)cm được cuốn băng dính màu đen xung quanh và có dây điện đấu nối dài 2,9 mét nối giữa dây điện với một đoạn gỗ diện (13 x 1)cm, phần đầu đoạn gỗ có hai vạt đầu nhọn bằng kim loại kích thước 0,7cm.
Trả lại cho ông Nguyễn Văn BI: 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha sirius, màu sơn đỏ đen, BKS: 30P3 - 0712; số khung : RLC55C640AY342505; số máy: 5C64 - 342511.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện B và Chi cục thi hành án huyện B ngày 11/5/2021)
4. Án phí: Bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H mỗi bị cáo phải nộp 200.000,đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Anh T, Nguyễn Văn H, ông Nguyễn Văn BI được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Anh Đoàn Minh HO, chị Phùng Thị TU được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!