Bản án số 62/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 của TAND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 62/2019/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 62/2019/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 62/2019/HS-ST ngày 11/11/2019 của TAND huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Thanh Liêm (TAND tỉnh Hà Nam) |
Số hiệu: | 62/2019/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/11/2019 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH LIÊM - TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 11/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 63/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:
Vũ Văn C - sinh năm 1975; nơi cư trú: Thôn UL, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn N và bà Trịnh Thị V (đều đã chết); có vợ: Thái Thị Q và 02 con, con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2007; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 28/6/2018, bị Công an phường Lam Hạ, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị tạm giữ từ ngày 18/5/2019, đến ngày 26/5/2019 có Quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giữ áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Phạm Thị Nhàn - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hà Nam; có đơn xin vắng mặt.
* Bị hại: Giáo họ tiểu khu NP, thị Trấn KK, huyện TL, tỉnh Hà Nam; người đại diện hợp pháp: Ông Viên Tiến Đ - sinh năm 1967; địa chỉ: Tiểu khu NP, thị Trấn KK, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
* Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Văn Tr - sinh năm 1970; nơi cư trú: Tiểu Khu K, thị trấn KK, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
2. Anh Nguyễn Minh H - sinh năm 1999; nơi cư trú: Tiểu Khu T, thị trấn KK, huyện TL, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Văn C là đối tượng có tiền sự do bị xử phạt hành chính về hành vi“Trộm cắp tài sản”. Khoảng 16 giờ ngày 17/5/2019, Vũ Văn C đi xe đạp đến nhà thờ giáo xứ Kiện thuộc thị trấn Kiện Khê huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam chơi, khi đến khu vực đền hai ông thánh Phê rô thuộc giáo họ tiểu khu Ninh Phú, thị Trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam thì C thấy 01 cái hòm bên ngoài ghi chữ “Hòm xin khấn”; biết bên trong hòm xin khấn có tiền nên C nảy sinh ý định trộm cắp tiền trong hòm để tiêu sài, nhưng do khu vực này đông người qua lại nên C chưa thực hiện được. Đến 04 giờ 30 phút ngày 18/5/2019, C đi xe đạp từ nhà và mang theo 02 chùm chìa khóa đến đền hai ông thánh, C đi từ lối phía Đông và dựng xe bên ngoài bậc lên xuống rồi quan sát xung quanh thấy không có ai, C đi đến chỗ đặt hòm xin khấn ngồi xuống trước hòm, tay phải đặt lên hòm để tìm cách mở khóa thì bị anh Nguyễn Văn Tr là người phục vụ lễ tại nhà thờ phát hiện và đi đến chỗ C, khi anh Tr cách chỗ C khoảng 20m thì C bỏ chạy ra chỗ để xe đạp thì bị anh Tr bắt giữ và báo cáo sự việc với đồn Công an thị trấn Kiện Khê.
Sau khi nhận tin báo, đồn Công an thị trấn Kiện Khê đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, đồng thời tiến hành điều tra, thu thập chứng cứ.
* Tài sản, vật chứng thu giữ gồm:
- Thu giữ trong hòm xin khấn số tiền 2.798.000 đồng.
- Thu giữ trên người của Vũ Văn C số tiền 365.000 đồng; 02 chùm chìa khóa bằng kim loại (01 chùm 20 chìa khóa, 01 chùm 04 chìa khóa) và 01 xe đạp màu nâu đen đã cũ.
Cơ quan CSĐT đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Văn C tại thôn UL, xã TH, huyện TL, tỉnh Hà Nam nhưng không thu tài liệu đồ vật gì.
Quá trình điều tra, do nghi ngờ về khả năng nhận thức và nă ng lực trách nhiệm hình sự của Vũ Văn C. Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm đã quyết định trưng cầu Viện pháp y tâm thần trung ương giám đ ịnh tình trạng tâm thần đối với Vũ Văn C.
Tại bản kết luận giám định tâm thần số 292/KLGĐ ngày 23/8/2019 của Viện pháp y tâm thần trung ương kết luận: “Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định bị can Vũ Văn C không có bệnh tâm thần. Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”.
Tại bản cáo trạng số 58/CT-VKSTL ngày 30/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm đã truy tố Vũ Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Vũ Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản” (chưa đạt). Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 3 điều 57; điều 15; của Bộ luật Hình sự - Xử phạt Vũ Văn C từ 06 đến 09 tháng tù; miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 xe đạp màu nâu đen đã cũ; tịch thu tiêu hủy 02 chùm chìa khóa bằng kim loại; trả lại cho bị cáo số tiền 365.000 đồng.
Tại bản luận cứ bào chữa cho bị cáo gửi Tòa án, người bào chữa cho bị cáo bà Phạm Thị Nhàn hoàn nhất trí với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Liêm truy tố bị cáo Vũ Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và đề nghị HĐXX xử căn cứ vào nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo ở mức án thấp nhất để bị cáo có cơ hội cải tạo, sống có ích cho bản thân, gia đình và xã hội.
Bị cáo Vũ Văn C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với lời khai người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, biên bản hiện trường, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác để tiêu sài cá nhân; khoảng 05 giờ ngày 18/5/2019, lợi dụng khu vực đặt hòm xin khấn đền hai ông thánh Phê rô thuộc giáo họ tiểu khu Ninh Phú, thị Trấn Kiện Khê, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam không có người trông coi, Vũ Văn C đã có hành vi lén lút trộm cắp số tiền 2.798.000 đồng trong hòm xin khấn; tuy nhiên bị cáo chưa chiếm đoạt được số tiền trên thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tộị “Trộm cắp tài sản” phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là hoàn toàn đúng người, đúng tội có căn cứ pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Do đó Hội đồng xét xử thấy cần ra bản án ngiêm khắc tương xứng hành vi phạm tội của bị cáo.
Trong lượng hình. Xét về nhân thân bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thấy rằng:
Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu có một tiền sự về hành vi trộm cắp chưa được xóa.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nào.
Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo thuộc hộ cận nghèo nên xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự Qua xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là người coi thường pháp luật, đã bị xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho gia đình và xã hội mà lại tiếp tục phạm tội do lỗi cố ý. Vì vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân lương thiện và phòng ngừa chung.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người lao động tự do, không có thu nhập ổn định, gia đình thuộc hộ cận nghèo; nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Về trách nhiệm dân sư:
Người đại diện hợp pháp của bị hại ông Viên Tiến Đ không có đề nghị gì, nên HĐXX không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 chiếc xe đạp màu nâu đen đã cũ: Quá trình điều tra xác định là tài sản riêng hợp pháp của bị cáo. Ngày 18/5/2019, bị cáo đã sử dụng chiếc xe này làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội, nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
- Đối với 02 chùm chìa khóa bằng kim loại: Quá trình điều tra xác định là đồ vật có liên quan đến tội phạm của vụ án không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với số tiền 365.000 đồng thu giữ của bị cáo: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến tội phạm trong vụ án, nên trả lại cho bị cáo.
- Đối với số tiền 2.798.000 đồng thu giữ trong hòm xin khấn: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của giáo họ tiểu khu Ninh Phú, nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho người đại diện hợp pháp của giáo họ ông Viên Tiến Đ là phù hợp pháp luật.
[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; khoản 3 điều 57; Điều 38 và Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Các điều 106; 136; 331;333 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản” (chưa đạt).
2. Xử phạt bị cáo Vũ Văn C 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án được trừ số ngày tạm giữ từ ngày 18/5/2019 đến ngày 26/5/2019.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc xe đạp màu nâu đen đã cũ.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chùm chìa khóa 20 chìa bằng kim loại và 01 (một) chùm chìa khóa 04 chìa bằng kim loại.
- Trả lại cho bị cáo Vũ Văn C số tiền 365.000 đồng (ba trăm sáu mươi lăm nghìn đồng).
(Tình trạng vật chứng như trong Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 03/10/2019, giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Thanh Liêm với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Thanh Liêm và số tiền theo Ủy nhiệm chi chuyển khoản, chuyển tiền điện tử số 16 lập ngày 04/10/2019 tại Kho bạc nhà nước huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam).
4. Án phí: Buộc bị cáo Vũ Văn C phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!