Bản án số 04/2024/HS-ST ngày 30/01/2024 của TAND huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 04/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 04/2024/HS-ST ngày 30/01/2024 của TAND huyện Yên Minh, tỉnh Hà Giang về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Yên Minh (TAND tỉnh Hà Giang)
Số hiệu: 04/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/01/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Khoảng 14 giờ ngày 22/11/2023 Vàng Văn T đã thực hiện hành vi trộm cắp một chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe Wave, màu đen - bạc, biển kiểm soát 23L1-113.19 của Hùng Vương S, sinh năm 1997 tạm trú tại tổ C thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Hà Giang để ở nhà xe của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y thuộc tổ 3 thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Hà Giang có trị giá 11.500.000đ (mười một triệu năm trăm nghìn đồng).
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN Y, TNH HÀ GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Đoàn Ngọc Vĩnh.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Tống Đức Bách, ông Nguyễn Đình Bình
- Thư phiên tòa: Hồ Quỳnh Trang là Thư Toà án nhân dân huyện
Y, tỉnh Hà Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Giang tham gia
phiên toà: Bà Đặng Thị Lài - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh
Giang, Tòa án nhân n huyện Y, tỉnh Hà Giang xét xử thẩm công khai vụ án
hình sự thẩm thụ số: 01/2024/TLST-HS ngày 17 tháng 01 năm 2024 theo
Quyết định đưa vụ án ra t xsố: 01/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 01 năm
2024 đối với bị cáo:
Vàng Văn T; sinh m: 2003, tại thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Giang; nơi
cư trú: Thôn B, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình
độ học vấn: 08/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch:
Việt Nam; con ông Vàng A T1, sinh năm 1976 Thèn Thị P, sinh năm 1980;
vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: không; bị cáo b bắt ngày
24/11/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Y, tỉnh
Giang; có mặt.
- Bị hại: Anh Hùng Vương S, sinh năm 1997; địa chỉ: T C, thị trấn Y
huyện Y, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).
NI DUNG V ÁN:
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 22/11/2023 Vàng Văn T đi bộ qua Viện kiểm sát nhân
dân huyện Y và quan sát thấy bên trong nhà xe nhiều xe máy không
người trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản, T đi bộ qua cổng chính
vào khu vực nhà để xe cách cổng 15 mét phía bên tay phải dắt chiếc xe máy nhãn
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN Y
TỈNH HÀ GIANG
Bản án số: 04/2024/HS-ST
Ngày 30 - 01 - 2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
hiệu HONDA, loại xe Wave, màu đen, biển kiểm soát 23L1-113.19 của anh Hùng
Vương S, sinh năm 1997, hiện đang tạm ttại tổ C thị trấn Y, huyện Y, tỉnh
Giang đi ra khỏi cổng theo ớng đường Hồng P1 đi ra đường Quốc lộ 4C
được 16 mét thì dùng tay rút dây mát ở ổ khóa điện rồi đi sang bên phía tường rào
của trường Mầm non H tìm bẻ được 01 đoạn thép ly dài khoảng 10cm rồi cắm hai
đầu dây thép ly vào cắm điện để khởi động xe máy đi về nhà tại thôn B, thị trấn
Y, T lấy 01 chiếc tua vít và 01 chiếc cờ lê ở nhà vặn tháo gương xe, tháo móc treo
hàng phía trước biển số xe cất dấu phòng ngủ, cậy m cốp xe máy thấy
không tài sản gì, sau đó T điều khiển xe máy đi chơi quanh thị trấn Y, đến
khoảng 20 giờ T điều khiển xe máy về để ở gần cầu thuộc thôn B, thị trấn Y. Hôm
sau T đi bộ ra chỗ để xe máy rồi điều khiển xe đi chơi xung quanh thị trấn Y sau
đó điều khiển xe máy đến tH, thị trấn Y, huyện Y xe máy một khu đất trống
đi bộ về nhà. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 24/11/2023 T đi ra vtđể xe máy
kiểm tra xăng xe chuẩn bị khởi động xe máy để đi chơi thì btổ công tác Công an
huyện Y tạm giữ người và tài sản để điều tra theo quy định.
Quá trình điều tra, xác minh, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã
xác định Vàng Văn T là người đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Hùng
Vương S, người trình báo bị mất trộm tài sản ngày 22/11/2023.
Ngày 24/11/2023, quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y yêu cầu
định giá tài sản số: 37/YC-ĐCSHS-KT-MT đối với 01 xe máy biển số: 23L1-
113.19, nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, màu sơn Đen Bạc; số khung:
JA39E1062025; số máy: 3910KY204204; dung tích 109; đăng lần đầu ngày
31/7/2019, tình trạng xe đã qua sử dụng, hoạt động bình thường. Tại kết luận định
giá tài sản số: 11/KL-HĐĐGTS, ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Hội đồng định
giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận đối với 01 xe máy biển số:
23L1-113.19, nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, màu sơn Đen Bạc; skhung:
JA39E1062025; số máy: 3910KY204204; dung tích 109; đăng lần đầu ngày
31/7/2019, tình trạng xe đã qua sử dụng, hoạt động bình thường có giá trị:
11.500.000 đồng (mười một triệu năm trăm nghìn đồng).
Ngày 30/11/2023, quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y khởi tố vụ
án hình sự, khởi tố bị can Vàng n T vTội trộm cắp tài sản” quy định tại
khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã tiến hành
cho bị cáo xác định hiện trường, thực nghiệm điều tra. Kết quả xác định hiện
trường, Th nghiệm điều tra phù hợp với hiện trường mà bị hại xác định bị mất
trộm tài sản, phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại các tài liệu chứng cứ khác
đã thu thập được có lưu trong hồ sơ vụ án.
Ngoài hành vi trộm cắp tài sản trên, quá trình điều tra, Vàng Văn T còn
khai nhận khoảng giữa tháng 11 năm 2023 T còn thực hiện hành vi trộm cắp tài
sản là 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE, màu sơn Trắng - Đen
- Bạc; Số khung: JA3919LY1444392; Số máy: JA39E1482269; xe không có biển
số; 01 (một) Chứng nhận đăng xe , xe máy mang tên Ngô Giang N; Số
3
đăng 006820; Biển số 23B1-599.47 01 (một) giấy chứng nhận bảo hiểm tự
nguyện mô tô, xe máy, xe máy điện mang tên Ngô Giang N tại thành phố H. Vàng
Văn T đã tự nguyện giao nộp số tài sản trộm cắp trên cho Công an huyện Y. Ngày
01/12/2023 Công an huyện Y đã văn bản số 71/CV-ĐCSHS-KTMT trao đổi
thông tin vụ việc với Công an thành phố H để xác nhận. Ngày 11/12/2023 Công
an thành phố H đã văn bản trả lời số 160/CV-CSĐT trả lời xác nhận tài sản
trên đề nghị quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y chuyển toàn bộ vật
chứng trên đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H để tiếp tục điều tra
xác minh làm vụ việc. Tại Quyết định xử vật chứng số: 14/QĐ-ĐCSHS-
KTMT ngày 11/12/2023 của quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xử lý
tài sản trên bằng hình thức giao cho quan cảnh sát điều tra Công an thành phố
H giải quyết theo quy định của pháp luật.
Vật chứng của vụ án: 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe WAVE,
màu sơn Đen - Bạc; Số khung: JA39E1062025; Số máy: 3910KY204204; Tình
trạng xe đã qua sử dụng, hoạt động bình thường, xe máy không biển số; 01
(một) biển số xe máy 23 L1 - 113.19; 02 (hai) móc treo đồ xe y, đã qua sử
dụng; 01 (một) bảo hiểm loại nửa đầu, màu đen đã qua sử dụng. Quá trình
điều tra bị hại đơn xin lại tài sản trên nên quan cảnh sát điều tra Công an
huyện Y, tỉnh Giang đã trả lại tài sản trên cho các chủ sở hữu theo Quyết định
xử lý vật chứng số: 14/QĐ-ĐCSHS-KTMT ngày 11/12/2023.
Các vật chứng hiện tại đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Y gồm: 01 (một) chiếc cờ lê, cỡ 10 - 14; 01 (một) chiếc tua vít cán màu
đen, dài 14 cm; 01 (một) đoạn dây điện màu đen dài 90 cm; 01 (một) thanh kim
loại màu đen dài khoảng 10 cm; 01 (một) điện thoại di động loại màn hình cảm
ứng, nhãn hiệu VIVO màu xanh dương, điện thoại đã qua sử dụng.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Hùng Vương S đã nhận lại được tài sản bị
trộm cắp nên không có yêu cầu gì về phần dân sự.
Bản Cáo trạng số: 03/CT-VKSYM ngày 17/01/2024 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Y, tỉnh Hà Giang đã truy tố bị cáo Vàng Văn T về tội “Trộm cắp
tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi
phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.
Kiểm sát viên thực nh quyền công ttại phiên tòa giữ nguyên quyết định
truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản Cáo trạng đề nghị Hội
đồng xét xử tuyên bố bị cáo ng n T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng
khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt
bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù; Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền
đối với bị cáo; về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thm theo quy định của
pháp luật; về xửvật chứng: Đề nghị xử theo quy định của pháp luật.
Bị cáo nhất trí với Luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y không
ý kiến đối đáp, tranh luận và không ý kiến vquyết định truy tố của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Hà Giang.
4
Bị cáo i lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bản thân bcáo
biết mình đã vi phạm pháp luật và mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được
hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.
Sau khi thẩm tra các chứng cứ trong hồ sơ, nghe lời khai của bị cáo, ý
kiến của Kiểm sát viên.
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung ván, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về nh vi, quyết định ttụng của quan điều tra Công an huyện Y,
Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình
điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người
tham gia tố tụng không ai ý kiến hay khiếu nại vhành vi, quyết định của
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định của
Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa: Tại
phiên tòa vắng mặt bị hại tuy nhiên đã đơn xin xét xử vắng mặt; xét thấy việc
bị hại vắng mặt không làm ảnh hưởng đến việc xét xử của Tòa án do đó, Hội đồng
xét xử căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, quyết định vẫn tiến
hành xét xử vụ án.
[3] Về tội danh, áp dụng điều luật: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa
bị o đã thành khẩn khai nhận toàn bhành vi phạm tội của mình, lời khai nhận
tội của bị cáo trước tòa phù hợp với các lời khai của bcáo trong quá trình điều
tra, phù hợp với biên bản, đồ, bản ảnh xác định hiện trường; biên bản, đồ,
bản ảnh thực nghiệm điều tra, kết luận định gtài sản, các lời khai của bị hại
cùng toàn bộ chứng cứ khác trong hồ ván đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Như vậy, đã đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 22/11/2023 Vàng Văn
T đã thực hiện hành vi trộm cắp một chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, loại xe
Wave, màu đen - bạc, biển kiểm soát 23L1-113.19 của Hùng Vương S, sinh năm
1997 tạm trú tại tổ C thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Giang để nhà xe của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Y thuộc tổ 3 thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Giang trị
giá 11.500.00(mười một triệu năm trăm nghìn đồng). Cáo trạng của Viện kiểm
sát nhân dân huyện Y truy tố bị cáo về tội danh, điều luật trên là đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật, luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y căn cứ,
Hội đồng xét xử đủ sở để kết luận bị cáo Vàng Văn T phạm tội Trộm cắp
tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi trộm cắp
tài sản của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp,
xâm phạm đến quyền sở hữu về i sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm
mất trật tự trị an, an toàn hội tại địa phương, trong khi bị cáo là người có năng
5
lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình trái pháp luật nhưng
mục đích để phương tiện đi lại nên bị cáo đã lợi dụng hở của chủ sở hữu
trong việc quản tài sản đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của bị hại;
hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, cần phải xử
nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định tương
xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo bị cáo trở
thành công n ích cho hội và đảm bảo công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm, tuyên truyền pháp luật cũng như đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo.
[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không tình tiết
tăng nặng trách nhiệmnh sự.
[7] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được hưởng các
tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá
trình điều tra tại phiên a bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo
quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cần xem xét áp dụng
giảm nhẹ phần nào nh phạt cho bị cáo khi lượng hình là phù hợp, đúng với quy
định của pháp luật, thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật hội chủ
nghĩa đối với bị cáo.
[8] Về biện pháp ngăn chặn: Cần tiếp tục ra quyết định tạm giam bị o để
đảm bảo thi nh án theo quy định tại khoản 1 Điều 329 của B lut Tố tụng nh s.
[9] Vhình phạt bổ sung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, lời
khai của bị cáo tại phiên tòa xác định, bị cáo không nghề nghiệp thu nhập ổn
định nên không áp dụng hình phạt bổ sung hình phạt tiền đối với bị cáo theo
quy định tại khoản 5 Điều 173 của B luật Hình sự.
[10] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại không yêu cầu bồi
thường, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[11] Đối với hành vi trộm cắp tài sản 01 chiếc xe máy tại thành phố H
vào khoảng giữa tháng 11 năm 2023 của bị cáo đang được quan cảnh sát điều
tra Công an thành phố H điều tra, xác minh không đề cập giải quyết trong vụ án
này nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[12] Đối với các vật chứng trong quá trình điều tra, quan điều tra đã trả
lại cho chủ sở hữu theo Quyết định xử vật chứng số: 14/QĐ-ĐCSHS-KTMT
ngày 11/12/2023 phù hợp, đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử
không xem xét giải quyết.
[13] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy đối với các vật chứng được
xác định không giá trị, không sử dụng được gồm: 01 (một) chiếc cờ lê, cỡ 10 -
14; 01 (một) chiếc tua vít cán màu đen, dài 14 cm; 01 (một) đoạn dây điện màu
đen dài 90 cm; 01 (một) thanh kim loại màu đen dài khoảng 10 cm. Trả lại cho bị
cáo 01 (một) điện thoại di động loại màn hình cảm ứng, nhãn hiệu VIVO màu
xanh dương không liên quan đến tội phạm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
6
47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật
Tố tụng hình sự.
[14] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm.
[15] Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về tội danh,
hình phạt các vấn đkhác phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên
được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 173, Điều 38, điểm i, s khoản 1 Điều 51, điểm a
khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm
a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1, khoản 3 Điều
329, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1
Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng Văn T, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Hình phạt: Xử phạt bị o Vàng Văn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn
tù tính từ ngày bị bắt ngày 24/11/2023.
Quyết định tạm giam bị cáo ng Văn T với thời hạn là 45 (bốn mươi lăm)
ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc cờ lê, cỡ 10 - 14; 01 (một) chiếc tua vít
cán màu đen, dài 14 cm; 01 (một) đoạn dây điện màu đen dài 90 cm; 01 (một)
thanh kim loại màu đen dài khoảng 10 cm.
- Trả lại cho bị cáo Vàng Văn T 01 (một) điện thoại di động loại màn hình
cảm ứng, nhãn hiệu VIVO màu xanh dương, điện thoại đã qua sử dụng.
(Tình trạng các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày
19/01/2024 giữa quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, tỉnh Giang với
Chi cục Thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh Hà Giang).
4. Án phí hình s: Bị cáo Vàng Văn T phải chịu 200.000 đồng
(hai trăm
nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày
kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt quyền kháng cáo bản án trong hạn 15
ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
7
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9
Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại
Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Nơi nhận:
- TAND Tỉnh Hà Giang;
- VKS tỉnh Hà Giang;
- Sở Tư pháp tỉnh Hà Giang;
- Phòng PC 10, PV 06 CATHG;
- VKS huyện Y;
- Công an huyện Y;
- Cơ quan THA huyện Y;
- Chi cục THADS huyện Y;
- UBND thị trấn Y;
- Bị cáo; Bị hại;
- Lưu hsva, hstha, vp.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đoàn Ngọc Vĩnh
Tải về
Bản án số 04/2024/HS-ST Bản án số 04/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất