Bản án số 161/2024/HS-ST ngày 12/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 161/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 161/2024/HS-ST ngày 12/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương
Tội danh:
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bình Dương
Số hiệu: 161/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/11/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Giết người
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 161/2024/HS-ST
Ngày 12-11-2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Huy Toàn.
Thẩm phán: Ông Trương Văn Lộc.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Tiến Phương.
Ông Mai Văn Phước;
Bà Trần Thị Đẹp.
- Thư phiên tòa: Nguyn Hng Minh Như - Thư Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Bà Hoàng Thị Hải - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 11 năm 2024 tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân tỉnh
Bình Dương điểm cầu thành phần Trại tạm giam - Công an tỉnh Bình Dương
xét xử thẩm (trực tuyến) công khai vụ án hình sự thẩm thụ lý số:
140/2024/TLST-HS ngày 07 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 167/2024/HS-ST ngày 09 tháng 9 năm 2024 đối với các bị cáo:
1. Trần Đ sinh năm 2003 tại tỉnh Sóc Trăng; nơi trú: ấp V, H,
huyện Thạnh Trị, tỉnh Sóc Trăng; trình độ văn a (học vấn): lớp 3/12; nghề
nghiệp: buôn bán; giới tính: nam; dân tộc: Khmer; tôn giáo: không; quốc tịch:
Việt Nam; con ông Trần Ph Thạch Thị D; bcáo chưa vợ, con; tiền
án, tiền sự: không.
Nhân thân:
Ngày 14/3/2019, bị Công an phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một
xử phạt cảnh cáo về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.
Ngày 14/8/2020, bị Công an thành phố Thủ Dầu Một xử phạt 1.250.000
đồng về hành vi giấu gậy ba khúc trong người mục đích gây thương tích cho
người khác, chấp hành xong ngày 09/9/2020, bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày
31/7/2023 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Trần Thế L sinh năm 2000 tại tỉnh Đồng Nai; nơi trú: khu dân P,
ấp X, P, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; trình độ văn hóa (học vấn): lớp
2
8/12; nghề nghiệp: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh;
tôn giáo: Công giáo; con ông Trần Xuân Ch và Trương Thị Th1; bị cáo chưa
có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân:
Ngày 27/9/2019, bTòa án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xử
phạt 06 (sáu) tháng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Bản án số
82/2019/HS-ST). Chấp hành xong hình phạt ngày 06/5/2020.
Ngày 22/12/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một quyết định
áp dụng biện pháp xử vi phạm hành chính đưa vào sở cai nghiện bắt buộc
tại sở cai nghiện ma túy thuộc Sở Lao động thương binh xã hội tỉnh Bình
Dương; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/12/2023 đến nay; bị cáo mặt tại
phiên tòa;
3. Tăng Ngọc T sinh năm 1999 tại tỉnh Đồng Nai; nơi trú: khu dân
Z, ấp I, P, huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; trình độ văn hoá (học vấn):
lớp 4/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới
tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tăng Ngọc C1 Bùi Thị Th2; bị
cáo chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: ngày 05/6/2020, bị Tòa án nhân dân
huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng về tội
“Tàng trữ trái phép chất ma y” (Bản án s46/2020/HS-ST). Chấp hành xong
hình phạt ngày 03/5/2021. Đóng án phí xong tháng 12/2020; bcáo bị bắt tạm
giam từ ngày 23/12/2023 đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa;
4. Văn T1 sinh năm 1986 tại tỉnh Bình Phước; nơi trú: số xx,
đường C, tổ XX, khu N, phường Hiệp Thành, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh
Bình Dương; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): không biết
chữ; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con
ông Văn Th2 (đã chết) Nguyễn Thị N; bị cáo vợ và 01 người con
(sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân:
Ngày 12/8/2002, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xphạt 03 (ba) năm
về tội “Cướp tài sản” (Bản án số 92/2002/HSST). Đóng án phí ngày
07/4/2004, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/3/2004.
Ngày 10/11/2005, bTòa án nhân dân thị Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước
xử phạt 02 (hai) năm về tội “Trộm cắp tài sản (Bản án số 62/2005/HS-ST),
chấp hành xong.
Ngày 11/8/2005, bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú x phạt 06 (sáu)
tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ” (Bản án số 21/2005/HS-ST).
Ngày 17/02/2006, bTòa án nhân dân huyện Đồng Phú xử phạt 01 (một)
năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tổng hợp với Bản án số
21/2005/HS-ST ngày 11/8/2005 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú xử phạt
T1 06 (sáu) tháng về tội “Trốn khỏi nơi giam giữ” là 02 (hai) năm (Bản án
3
số 04/2006/HS-ST). Đóng án phí ngày 03/10/2013, chấp hành xong hình phạt
ngày 19/3/2009.
Ngày 28/9/2010, bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú xử phạt 03 (ba) năm
tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 49/2010/HSST). Đóng án phí ngày
04/4/2013, chấp hành xong hình phạt tù ngày 31/12/2012; bị cáo bị bắt tạm giam
từ ngày 22/4/2024 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa;
5. Phạm Quốc T2 sinh năm 2000 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: số V, khu
phố C, phường Chánh Mỹ, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; nghề
nghiệp: buôn bán; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo:
không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Quốc Thái bà
Nguyễn Thị Thanh Huyền; bị cáo chưa vợ, con; tiền sự: ngày 25/11/2020, bị
Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một ban hành Quyết định số 65 về việc áp
dụng biện pháp xử hành chính đưa vào sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 01
(một) năm 03 (ba) tháng.
Tiền án:
Ngày 01/4/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xử phạt 09
tháng về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 74/2021/HS-ST). Đóng án phí
21/6/2021, chấp hành xong hình phạt ngày 25/12/2021.
Nhân thân:
Ngày 28/5/2024, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một xử phạt 01
(một) năm 03 (ba) tháng về tội “Trộm cắp tài sản” (theo Bản án số
91/2024/HS-ST); bị cáo mặt tại điểm cầu thành phần Trại tạm giam - Công
an tỉnh Bình Dương. Bị tạm giam trong vụ án khác từ ngày 08 tháng 12 năm
2023.
6. Trần H sinh năm 2000 tại tỉnh Đồng Nai; nơi thường trú: ấp X, P,
huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; trình độ văn h(học vấn): 6/12; nghề
nghiệp: buôn bán; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch:
Việt Nam; con ông Hải H1 (đã chết) Trần Thị Kim Nh; bị cáo vợ,
02 người con (con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2022); tiền án, tiền
sự: không; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa;
7. Nguyễn Hữu D sinh năm 2000 tại tỉnh Đồng Nai; nơi trú: ấp I, P,
huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 6/12; nghề
nghiệp: buôn bán; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt
Nam; con ông Nguyễn Hữu Th Nguyễn Thị S; bị cáo vợ, 01 người
con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa;
- Người bào cha cho b cáo Trần Đ: ông Nguyn Ngc T6 - Luật sư
thuc Công ty Lut TNHH Ngc Sơn Partner thuộc Đoàn Luật Thành phố
H Chí Minh (có mt ti phiên toà);
- Người bào cha ch định cho b cáo Tăng Ngọc T b cáo Trn Thế L:
ông Minh Ph Luật Công ty Luật TNHH B.C.M thuộc Đoàn Luật tỉnh
Bình Dương (có mt). Ti phiên tòa, b cáo Tăng Ngọc T b cáo Trn Thế L
4
t chi người bào cha cho mình n người bào cha không tiếp tc thc hin
nhim v bào cha theo yêu cu của cơ quan tiến hành t tng.
- Người bào cha ch định cho b cáo Vũ Văn T1: ông Nguyn Bùi An B
Luật Công ty Lut TNHH AMA thuc Đoàn Luật tỉnh Bình Dương (có
mt ti phiên t);
- B hi: Ông Nguyn Hoàng L sinh năm 1999 (đã chết).
- Người đại din hp pháp cho b hi:
1. Ông Nguyễn Hoàng T sinh năm 1970;
2. Nguyễn Thị H sinh năm 1973;
Cùng nơi trú: số W, khu phố H, phường Hưng Định, thành phố Thuận
An, tỉnh Bình Dương; Người đại diện theo ủy quyền (giấy ủy quyền ngày
16/9/2024) của người đại diện theo pháp luật: Đặng Th Kiu T sinh năm
1988; nơi trú: số T, phường An Thạnh, thành phố Thuận An, tỉnh Bình
Dương, có mặt tại phiên toà;
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Ông Nguyễn Thành Nh sinh năm 1968 (có đơn xin xét xử vắng mặt);
2. Ông Nguyễn Thành N sinh năm 1991, có mặt tại phiên toà;
Cùng nơi trú: số X, tổ N, khu P, phường Phú Cường, thành phố Thủ
Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
3. Ông Trần Ph sinh năm 1980; nơi trú: số XX, đường Đ, khu phố
W, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, mặt tại
phiên toà.
- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T3 sinh năm 2002, mặt tại phiên
toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liu trong h sơ vụ ándin biến ti phiên tòa, ni dung
v án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 00 giờ ngày 03 tháng 01 năm 2023, tại quán bida Hoàng Gia
thuộc phường Chánh Nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Trần
Đ bạn gái tên Nhi nói chuyện với nhau, sau đó Nhi nói bạn gái của
Nguyễn Văn T3, sinh năm 2002, nơi thường trú: p T, B, huyện Tân Hiệp,
tỉnh Kiên Giang Huỳnh Trân, sinh năm 2004, nơi thường trú: khu 6, thị
trấn Tân Phú, huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai gọi đến quán Siku thuộc phường
Chánh nghĩa, thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương để trả tiền trước đó
T3 mượn của Đ 2.000.000 đồng và hẹn đến ngày 10 tháng 01 năm 2023 sẽ trả
lại 3.000.000 đồng nên Đ chở Nhi đến quán Siku gặp T3. Khi đến quán Siku, Đ
Nhi gặp Trân từ trong quán đi ra đưa cho Đ 2.000.000 đồng nhưng Đ
không đồng ý nói để đi vào gp T3 nói chuyện. Đ đi vào trong quán hỏi T3
5
Bữa hứa mười tây đưa ba triệu sao Trân điện thoại xuống chỉ đưa hai
triệu vậy”, T3 trả lời Hai triệu đó cầm đỡ đi, để mười tây đưa thêm một triệu
nữa”. Đ không đồng ý nên hai bên xảy ra mâu thuẫn. Đ bực tức T3 không trả
tiền mà còn có thái độ thách thức nên Đ điện thoại cho Trần Thế L, Nguyễn Hữu
D, Văn T1 nhờ đến quán nhậu Siku để hỗ trợ Đ đánh T3. Sau khi nghe Đ
điện thoại thì Nguyễn Hữu D điều khiển xe mô tô biển số 60B4 – 976.09 chở Vũ
Trần H, Văn T1 đi một mình bằng xe nhãn hiệu Sirius màu đỏ đến
quán Siku để gặp Đ. Tại quán, Đ chỉ cho D H, T1 biết T3 người thanh niên
mượn tiền của Đ không trả còn thái độ thách thức nên Đ nhD , T1 hỗ
trợ đánh T3. Do lúc này, T3 đang ngồi nhậu cùng với nhiều người nên nhóm của
Đ không dám đánh T3 trong quán. Đ cùng với D H, T1 bạn gái tên Nhi đi
sang bàn riêng trong quán ngồi nói chuyện. Đ tiếp tục kể về sự việc T3 ợn
tiền của Đ không trả như đã hứa mà còn thái độ thách thức nên Đ muốn cả
nhóm hỗ trợ Đ đánh T3 để dằn mặt. Đ nói cả nhóm di chuyển ra ngoài đường
phía trước quán chờ để Đ chở Nhi về phòng trọ. Đ chở Nhi đi cùng với D, H, T1
di chuyển ra khỏi quán cách khoảng 300m, Đ nói D, H, T1 đứng tại đây chờ Đ
chở Nhi về phòng trọ tại phường Tương Bình Hiệp, thành phố Thủ Dầu Một.
Trong lúc Đ chở Nhi về thì Tăng Ngọc T điều khiển xe tô hiệu Jupiter màu
vàng chở Trần Thế L; Phạm Quốc T2 điều khiển xe hiệu Sirius màu đỏ
đen đi một mình cũng đi đến hỗ trợ Đ đánh nhau. Sau khi chở Nhi về phòng trọ,
Đ đi về phòng trọ của Đ tại phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một lấy 01
dao với mục đích để sử dụng đánh T3. Đ điều khiển xe tô 60B4-529.21 đến
vị trí của H, D, T1 đang đứng chờ. Khi Đ đi đến gần vị trí của H, D, T1 đang
đứng, Đ thấy phía chiều ngược lại bị hại L chở T3 bằng xe nhãn hiệu
Sirius màu đỏ đen nên Đ la lớn “nó kìa, kìa, theo nó”. Nghe thấy Đ la lớn
T3 quay người lại nhìn nhưng không dừng lại L nói T3 ôm chặt đL tăng ga
chạy nhanh. Thấy T3 bỏ chạy, Đ quay đầu xe tăng ga truy đuổi theo. Nghe thy Đ
la ln, nm ca T, L, D, H, T2, T1 cùng tăng ga truy đuổi cùng vi Đ (T ch L bng
xe mô tô bin s 61L7-8632; D chở H bng xe mô tô bin s 60B4-976.09; T2 đi mt
mình bng xe mô tô bin s 61C1-702.18, T1 đi một mình bằng xe tô hiệu
Sirius màu đỏ không biển số). Khi truy đuổi được khoảng 500m, đến đoạn
đường trước chợ Thủ Dầu Một, T2 tăng ga vượt lên chạy song song ép xe của L,
T3, dẫn đến xe của T2 va quyẹt với xe của L, T3 làm T2 ngã xuống đường.
Xe của bhại L, T3 tiếp tục bchạy nhóm của Đ, T, L, T1 tiếp tục truy đuổi
theo sau; thấy T2 bị ngã D, H dừng xe đỡ T2 dậy xong tiếp tục tham gia đuổi
theo, T2 đi vào bệnh viện băng vết thương. Truy đuổi đến ngã ba đoạn giao
đường đi bộ vào chợ đêm Bạch Đằng, Đ lấy dao từ túi quần trái ra, cầm trên tay,
la lớn tiếp tục truy đuổi theo xe bị hại L, T3. T3 thấy Đ lấy dao ra cầm trên tay
nên T3 nói với bị hại L điều khiển xe chạy nhanh hơn. Quá trình rượt đuổi,
6
khoảng cách xe của Đ, T1 cách xe bị hại L, T3 khoảng 20m; xe của T, L cách xe
của Đ khoảng 100m, xe của H, D cách xe của Đ khoảng 500m. Khi đến khu vực
Miếu Tử Trận, bị hại L điều khiển xe chở T3 ôm cua rphải hướng vđường
Nguyễn Văn Tiết, do chạy xe nhanh nên tông vào gốc cây trên lề đường đi bộ,
cạnh hẻm XX, tN, đường T5, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một
ngã xuống đường, cả hai té nằm trên vỉa hè. Bị hại L té nằm bất tỉnh, T3 còn tỉnh
định chống tay ngồi dậy thì Đ chạy xe đến, xuống xe cầm dao trên tay phải đâm
vào vùng đùi, chân trái, chân phải, 01 nhát vào vùng lưng dùng chân đá 02
cái vào người của T3. Cùng lúc này, T, L cũng chạy đến dùng tay, chân đánh, đá
vào mặt, thân người của T3. Thấy T3 không còn khả năng chống cự nên Đ, T và
L lên xe đi về. Trên đường về cách vị trí của T3 nằm té ngã khoảng 50m,
Đ thấy xe của H, D đang chạy đến nên Đ nói quay về đi, xong rồi nên H, D quay
xe lại đi về cùng; riêng T1 khi thấy xe của bị hại L, T3 ngã nên lo sợ đã điều
khiển xe rẽ trái vào đường khác đi về phòng trọ.
Ngày 04 tháng 01 năm 2023, Đ, L đến quan Công an đầu thú còn
các bị cáo sau đó bị khởi tố để điều tra.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 52/2003/GĐPY
ngày 06/02/2023, Trung Tâm pháp y thuộc Sở Y tế tỉnh Bình Dương kết luận
Nguyễn Văn T3 bị tổn thương thể do thương tích gây ra tại thời điểm giám
định là 7% (bảy phần trăm).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tthi số 14/GĐPY ngày 05 tháng
01 năm 2023, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận:
Nguyễn Hoàng L như sau: nhiều vết sây sát da, bầm tụ máu bên ngoài, v
xương sàn sọ, hố sọ giữa, xuất huyết dưới nhện hai bán cầu đại não, tiểu não,
dập rách tiểu não, thân não, hành não tủy. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ
não.
Về trách nhiệm dân sự: Nguyn Thị H m ruột của bị hi Nguyễn Hng
L yêu cầu bồi thường chi phí mai ng số tiền 344.500.000 đồng (ba trăm bốn mươi
bn triệum trăm nghìn đồng) và tiền tn thất tinh thần 300.000.000 đng (ba trăm
triệu đồng).
Tại Cáo trạng số 169/CT-VKSBD-P2 ngày 06 tháng 8 năm 2024, Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã truy tố Trần Đ, Tăng Ngọc T, Trần
Thế L, n T1 về tội “Giết người” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều
123; truy tố các bị cáo Phạm Quốc T2, Nguyễn Hữu D Trần H về tội
“Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật Hình
sự năm 2015, (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, qua phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Bình Dương vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo như nội dung cáo
trạng. Đánh gtính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của các bị cáo trong
vụ án, đnghị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T T2
tái phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm nh sự quy định tại điểm h khoản 1
7
Điều 52 của Bộ luật Hình sự, đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho các bị cáo T, T2, T1 thành khẩn khai báo ăn n hối cải, quy định
tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Các bị cáo Đ, L thành khẩn
khai báo, ăn năn hối cải và đầu thú, quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của
Bộ luật Hình sự. Bị cáo H, D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần
đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51
của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 58
của Bộ luật Hình sự,
Xphạt bị cáo Trần Đ mức hình phạt từ 16 (mười sáu) năm đến 18
(mười tám) năm tù.
Xử phạt bị cáo Trần Thế L mức hình phạt t14 (mười bốn) m đến 16
(mười sáu) năm tù.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h
khoản 1 Điều 52, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Tăng Ngọc T mức
hình phạt từ 15 (mười lăm) năm đến 17 (mười bảy) năm tù.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của
Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Vũ Văn T1 mức hình phạt từ 14 (mười bốn) năm
đến 16 (mười sáu) năm tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều
52, Điều 56, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Quốc T2 mức
hình phạt từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tại Bản án số 91/2024/HS-ST
ngày 28 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một buộc bị
cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.
Áp dụng khoản 1 Điều 318, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ
luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu D xử phạt bị cáo Trần H mỗi bị
cáo mức hình phạt từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 06 (sáu)
tháng tù.
Vtrách nhim n sự: đối với s tiền mai táng gia đình bị hại yêu cầu
164.500.000 đng nhưng không cung cp c a đơn chứng từ. Tuy nhiên s tin
trên chi phí hợp lý cho vic mai ng n đề nghị chp nhận. Đối với khon bồi
thường tổn thất tinh thần do các bị o và gia đình bị hại không thỏa thuận đưc nên
căn cứ theo quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử chp nhn mc 100 ln
lương cơ sở, buộc các bcáo Trần Vũ Đ, Trần Thế L, Tăng Ngọc T, Vũ Văn T1
trách nhiệm liên đới bồi thường số tiền mai táng, tiền tổn tht tinh thần cho gia
đình bhại theo yêu cầu.
Người bào chữa cho bị cáo Trần Đ trình bày: thống nhất quan điểm
truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng của Viện kiểm sát. Trình bày nguyên
nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội do người làm chứng T3 nợ tiền không trả
đúng thỏa thuận còn thái độ, hành động thách thức bị cáo, người làm
chứng T3 có cầm dao nên dẫn đến việc kích động tinh thần đối với bị cáo, bị cáo
không mục đích phạm tội từ trước chỉ nhất thời phạm tội, do bị hại
8
người làm chứng T3 bỏ chạy nên không kiềm chế được hành vi của mình bị cáo
mới hành động cùng bạn dùng xe truy đuổi theo, bản thân bị hại điều khiển
xe sdụng rượu bia vi phạm Luật Giao thông đường bộ nên cũng
lỗi trong hậu quả tai nạn dẫn đến tvong, giữa bị cáo bhại không mâu
thuẫn từ trước nên bị cáo không động giết bị hại, bị cáo người dân tộc
Khmer, trình độ học vấn mới học lớp 3 nhận thức về pháp luật còn phần hạn
chế, sau phạm tội đã ra đầu thú, biết ăn năn hối hận, đã tác động gia đình nộp
tiền để khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản
1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự cho bị cáo, bị cáo có nhiều tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ
luật Hình s nên áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức hình
phạt dưới khung để tạo điều kiện cho bị cáo sớm trở vhòa nhập cộng đồng lo
cho gia đình. Về trách nhiệm dân sự, do yêu cầu của người đại diện hợp pháp
cho bị hại quá cao bị cáo không đồng ý đề nghị giải quyết theo quy định nên
đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định để giải quyết.
Các bị cáo Tăng Ngọc T Trn Thế L thống nhất việc truy tcác bị cáo
về tội danh và không tranh luận với Viện kiểm sát.
Người bào chữa cho bị cáo Văn T1 trình bày: do bị cáo đã thừa nhận
hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố nên thống nhất việc truy tbị cáo về
tội danh giết người. Thống nhất các tình tiết giảm nhẹ như đại diện Viện kiểm
sát đề nghị cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt mức hình phạt thấp nhất
cho bị cáo.
Các bị cáo Trần Vũ Đ, Trần Thế L, Tăng Ngọc T, Vũ Văn T1 không đồng
ý theo yêu cầu của người đại diện hợp pháp cho bị hại đề nghị giải quyết
theo quy định
Nời đại diện hợp pháp cho bị hại: Trong quá trình điều tra, bà Nguyn
Thị H mruột của Nguyn Hng L yêu cu bi thường chi phí mai ng số tiền
344.500.000 đng (ba trăm bốn mươi bốn triệu m trăm nghìn đồng) tiền tổn
tht tinh thn 300.000.000 đồng (ba trăm triệu đồng). Tại phiên a, do c bị o
không chấp nhn theo yêu cu của ngưi đi diện hp pháp của b hại n nời đại
din hợp pháp của bị hại đề nghị n c o a đơn, chứng từ để gii quyết về
khon tin chi phí mai ng cho gia đình bị hi. Đi với khoản bồi thường tn tht
tinh thần căn cứ theo quy định của pháp luật giải quyết cho gia đình bị hại.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Ph t
nguyện không yêu cầu bị cáo Đ hoàn trả lại tiền đã nộp thay cho bị cáo.
Các bị cáo đồng ý quan điểm bào chữa của người bào chữa cho bị cáo
không bổ sung tm.
Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Các bị cáo xin lỗi gia đình bị hại xin
tha thứ cho hành vi của mình, đồng thời kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ
hình phạt thấp nhất cho các bị cáo.
9
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quyết định tố tụng của quan điều tra Công an tỉnh Bình Dương,
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương, hành vi tố tụng của Điều tra viên,
Kiểm sát viên thực hiện việc điều tra, truy tố đúng theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phn tòa, các bị cáo, những người bào chữa
nhng nời tham gia tố tụng kc không ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi,
quyết định của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành
vi, quyết định tố tụng của quan tiến nh tố tụng, người tiến nh tố tụng đã
thc hiện đều hợp pháp.
[2] Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên
tòa, lời khai của họ được công bố tại phiên tòa, việc vắng mặt họ không ảnh
hưởng đến việc xét xử đối với vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị tiếp tục xét
xử, căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử quyết định
xét xử vắng mặt người này.
[3] Tại phiên a, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời
khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo
trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của đại diện hợp pháp của bhại,
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, phù hợp các tài liệu chứng cứ
thu giữ được trong vụ án nên có đủ cơ sở xác định: khoảng 00 giờ ngày 03 tháng
01 năm 2023, Trần Đ mâu thuẫn với Nguyễn Văn T3 trong việc nợ tiền nên
Đ rủ Trần Thế L, Tăng Ngọc T, Trần H, Nguyễn Hữu D đi đánh T3; Phạm
Quốc T2 đang đi chung với T L nên cũng đi tham gia cùng. Sau đó, D rủ
Văn T1 cùng tham gia đi đánh T3 hỗ trợ cho Đ. T chở L bng xe mô tô bin s
61L7-8632; D ch H bng xe mô tô bin s60B4-976.09; T2 đi mt mình bng xe mô
tô bin s 61C1-702.18, T1 đi một mình bằng xe Sirius màu đkhông
biển số truy đuổi bị hại L và T3 tquán Siku, chợ Thủ Dầu Một đến khu vực
Miếu Tử Trận, bị hại L điều khiển xe chở T3 ôm cua rẽ phải hướng về đường
Nguyễn Văn Tiết, do chạy xe nhanh nên tông vào gốc cây trên lề đường đi bộ,
cạnh hẻm XX, tN, đường T5, phường Phú Cường, thành phố Thủ Dầu Một
ngã xuống đường, cả hai nằm trên vỉa hè. Bị hại L nằm bất tỉnh, T3 định
chống tay ngồi dậy thì Đ chạy xe đến, xuống xe cầm dao trên tay phải đâm vào
vùng đùi, chân trái, chân phải, 01 nhát vào vùng lưng dùng chân đá 02 cái
vào người của T3. Cùng lúc này, T, L cũng chạy đến dùng tay, chân đánh, đá
vào mặt, thân người của T3 gây thương tích. Thấy T3 không còn khả năng
chống cự nên Đ, T L lên xe tô đi về. Trên đường về cách vị trí của T3
nằm nkhoảng 50m, Đ thấy xe của H, D đang chạy đến nên Đ nói quay về
đi, xong rồi nên H, D quay xe lại đi vcùng; riêng T1 khi thấy xe của bị hại L,
10
T3 té ngã nên lo sợ đã điều khiển xe rẽ trái vào đường khác đi về phòng trọ. T2
bị ngã trên đường đi đến Bệnh viện khâu vết thương.
Hành vi của bị cáo Trần Vũ Đ dùng dao là hung khí nguy hiểm cùng Tăng
Ngọc T, Trần Thế L, Văn T1 điều khiển xe mô tô truy đuổi bị hại L, T3 trên
đoạn đường Nguyễn Văn Tiết là nguy hiểm. Khi T3 thấy bcáo Đ cầm dao điều
khiển rượt đuổi theo xe mô của bị hại L nên T3 nói với bị hại L điều
khiển xe nhanh hơn, bị hại L chở T3 với vận tốc cao ôm cua rẽ phải hướng về
đường Nguyễn Văn Tiết, do chạy xe nhanh nên tông vào gốc cây trên lề đường
đi bộ hậu quả làm bị hại L tử vong. Bị hại L trong tình trạng bị truy đuổi, uy
hiếp, đe dọa nên bị hại L lo sợ đã điều khiển xe mô bỏ chạy với vận tốc
nhanh, khả năng cao gây tai nạn nguy hiểm đến tính mạng. Các bị cáo buộc phải
nhận thức được việc dùng mô truy đuổi với vận tốc cao rất nguy hiểm
nhưng vẫn tiếp tục truy đuổi cho đến khi thấy bị hại L, T3 ngã xe mới dừng lại.
Khi bị hại L nằm bất tỉnh, T3 còn tỉnh ngồi dậy thì Đ chạy xe đến, xuống xe
cầm dao trên tay phải đâm vào vùng đùi, chân trái, chân phải, 01 nhát vào vùng
lưng dùng chân đá 02 cái vào người của T3. T, L cũng chạy đến dùng tay,
chân đánh, đá vào mặt, thân người của T3, thấy T3 không còn khả năng chống
cự nên Đ, T và L lên xe đi về. Về mặt chủ quan, các bị cáo không mong
muốn hậu quả chết người xảy ra nhưng ý thức chấp nhận để hậu quả chết
người xảy ra và thực tế là bị hại L đã chết.
Theo Án lệ số 59/2023/AL thì tình huống pháp tương tự án l: Hành vi
của bị cáo Trần Đ dùng dao hung knguy hiểm cùng các bị cáo Tăng
Ngọc T, Trần Thế L, Văn T1 điều khiển xe truy đuổi L, T3, do sợ bị
đâm nên điều xe chạy nhanh dẫn đến tông xe vào gốc cây trên lề đường đi bộ,
hậu quả dẫn đến ông L tử vong. Như vậy, đã đủ căn cứ kết luận các bị cáo Trần
Đ, Tăng Ngọc T, Trần Thế L, Văn T1 đã phạm vào tội “Giết người” với
lỗi cố ý gián tiếp.
Hành vi của các bị cáo Phạm Quốc T2, Nguyễn Hữu D, Trần H điều
khiển xe tô trên đoạn đường trước chợ Thủ Dầu Một, T2 chạy song song ép
xe của L, T3, dẫn đến xe của T2 va quẹt với xe của L, T3 làm T2 ngã xuống
đường. Hành vi dùng xe mô của các bcáo Phạm Quốc T2, Nguyễn Hữu D
Trần H đuổi theo L, T3 trên đoạn đường đông người, gây rối trật tự công
cộng làm ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hành vi của các bị
cáo đã cấu thành tội “Gây rối trật tự công cộng” quy định tại khoản 1 Điều 318
ca B lut Hình s năm 2015 (sửa đổi, b sung năm 2017).
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố
các bị cáo Trần Đ, Tăng Ngọc T, Trần Thế L, Văn T1 về tội “Giết
người”; truy tố các bị cáo Phạm Quốc T2, Trần H, Nguyễn Hữu D về tội
“Gây rối trật tự công cộng” căn cứ, đúng người, đúng tội đúng pháp
luật.
[4] Hành vi của các bị cáo đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã
hội. Về nhận thức, các bcáo biết hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm
11
truy đuổi, dọa bị hại là trái pháp luật và có khả năng tước đoạt mạng sống của bị
hại nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm, bất chấp hậu quả xảy ra, thhiện bản
tính côn đồ, ý thức xem thường pháp luật. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã
xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của bị hại được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng
đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho người
dân sinh sống tại khu vực. Do vậy, cần phải xphạt các bị cáo mức hình phạt
tương xứng nhằm tác dụng răn đe, giáo dục đối với các bị o phòng ngừa
chung cho xã hội.
Xét vai tcủa từng bị cáo: bị cáo Đ là người mâu thuẫn với Nguyễn
Văn T3, sau đó khởi xướng đánh nhau kích động đồng phạm dùng xe tô
truy đuổi, đồng thời chuẩn bị dao hăm dọa bị hại truy đuổi đến cùng, khi
bị hại ngã bất tỉnh, bị cáo tiếp tục dùng dao tấn công Nguyễn Văn T3 nên tính
nguy hiểm của Đ cao hơn các bcáo còn lại. Đối với các bị cáo T, L, T1 với
vai trò đồng phạm tích cực truy đuổi đánh bị hại đến cùng, khi bị hại ngã bất
tỉnh bị cáo tiếp tục dùng tay, chân tấn công Nguyễn Văn T3 nên tính nguy hiểm
của các bị cáo như nhau. Tuy nhiên, trong đó bị cáo T tiền án nên cn cân
nhắc khi quyết định hình phạt. Đối với các bị cáo phạm tội Gây rối trật tự công
cộng”, trong đó bị cáo T2 tuy vai trò truy đuổi không tham gia đến cùng, nhưng
bản thân bị cáo tiền án nên khi quyết định hình phạt cũng cần cân nhắc, các
bị cáo D, H vai trò ngang nhau đều tham gia truy đuổi nhưng sau khi đuổi
theo không kịp thì bvkhông tham gia đến cùng nên tính chất nguy hiểm của
hai bị cáo là ngang bằng nhau.
[5] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhtrách nhiệm hình sự đối với các bị
cáo.
Bị cáo T và T2 phạm tội trong trường hợp tái phạm, là tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Các bị cáo T, T2, T1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tình tiết
giảm nhtrách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật
Hình sự. Các bị cáo Đ, L thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau phạm tội ra
đầu thú, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, 2
Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bcáo H, D thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Quan điểm đối đáp của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đối
với người bào chữa cho bị cáo Đ về đề nghị không áp dụng Điều 54 của Bộ luật
Hình sự cho bị cáo Đ căn cứ, đề nghị mức hình phạt đối với các bị cáo Đ,
H, D T2 phù hợp, mức hình phạt đối với các bị cáo T1, T, L không phù
hợp. Đề nghị về trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo là có căn cứ.
[7] Quan điểm bào chữa của người bào chữa cho bị cáo Đ trình bày
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến việc bị cáo phạm tội là có căn cứ, việc xác định
12
người làm chứng bị hại lỗi không phù hợp, đnghị Hội đồng xét xử áp
các tình tiết giảm nhẹ nViện kiểm sát đề nghị căn cứ. Tuy nhiên, đề
nghị áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp
dưới khung không có cơ sở.
[8] Quan điểm bào chữa của người bào chữa cho bị cáo T1 đề nghị Hội
đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như Viện kiểm sát đề nghị căn
cứ, đnghị xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất mà Viện kiểm sát đề nghị là
có cơ sở.
[9] Đối với ông Nguyễn Văn T3 bị các đối ợng trong vụ án gây thương
tích 7%, ông T3 khôngu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với những người đã gây
thương tích cho ông nên quan Cảnh t điều tra Công an tỉnh Bình ơng
không xử lý có sở.
[10] Về trách nhiệm dân s: Tại phn a, do c bị cáo không chp nhn
theo yêu cầu của nời đi diện hợp pháp của bị hạin nời đại diện hợp pháp của
b hại đề nghị n cứ theo quy định để gii quyết. Đối với khoản bồi thường tổn thất
tinh thần căn c theo quy định ca pháp luật gii quyết cho gia đình bhi. Đối vi số
tin mai táng gia đình bị hại yêu cầu là 164.500.000 đồng nhưng không cung cấp các
hóa đơn chứng từ. Tuy nhiên s tiền trên là chi phí hp cho việc mai táng nên có cơ
s chp nhn. Đối với khon bi thường tổn thất tinh thần do các bị cáo và gia đình
b hại không thỏa thuận được căn cứ theo quy định tại Điu 591 của Bộ luật Dân sự,
Hội đng xét xử chấp nhận mức 100 ln ơng cơ s (lương cơ sở hin ti quy định
2.340.000 đồng/tháng) số tiền 234.000.000 đồng, buộc các bo Trần Vũ Đ, Trần
Thế L, Tăng Ngọc T, Văn T1 trách nhiệm liên đới bồi thường số tiền mai
táng, tiền tn thất tinh thần cho gia đình b hại theo yêu cu.
[11] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Ông Trần Vũ Ph tự
nguyện khắc phục hậu quả không yêu cầu bcáo Đ hoàn trả lại tiền đã nộp thay
cho bị cáo đây là sự tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[12] Xử lý vật chứng:
Đối với xe mô biển số 67L1-8632, bị cáo T bị cáo L dùng o việc
phạm tội, quá trình điều tra xe trên của ông Nguyễn Thành Nh, ông Nh không
có lỗi nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương không thu giữ nên
không đề cập xử lý là có căn cứ.
Đối với xe mô biển số 60B4-529.21, bị o Đ dùng vào việc phạm tội,
quá trình điều tra xe tn là của ông Nguyễn Minh Tr, ông Tr không có lỗi nên Cơ
quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương không thu giữ nên không đề cập
xử lý là có căn cứ.
Xe mô biển số 61C1-702.18, bị cáo T2 dùng vào việc phạm tội, sau đó
bị cáo T2 đã bán cho người khác không nhân thân lai lịch nên quan Cảnh
sát điều trang an tỉnh Bình Dương không thu giữ được nên không đề cập xử lý
là có căn cứ.
13
Xe mô biển số 60B4-976.09 của bị cáo D xe không biển số
của bị cáo T1 dùng vào việc phạm tội, quá trình điu tra xe trên là của bị cáo D
bị cáo T1 đã bán, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương không thu
hồi được nên không đề cập xử lý là có căn cứ.
Đối với dao bị o Đ dùng gây thương tích cho ông T3, bị cáo Đ ném trên
đường đi, quan Cảnh sát điều tra ng an tỉnh Bình Dương không thu hồi
được nên không đề cập xử lý là có căn cứ.
[13] Đối với số tiền 50.000.000 đồng do ông Trần Ph (cha ruột của bị
cáo Đ) nộp khắc phục hậu quả cho bị hại tại giấy nộp tiền ngày 15 tháng 5 năm
2024 cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.
[14] Về án phí thẩm: các bị cáo phạm tội bị kết án nên phải chịu án
phí hình sự sơ thẩm. Ngoài ra, các bị cáo Trần Đ, Trần Thế L, Tăng Ngọc T,
Văn T1 còn phải thực hiện nghĩa vliên đới bồi thường nên phải liên đới
chịu án phí dân sự thẩm theo quy định của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Về trách nhiệmnh sự:
Tuyên bố các bcáo Trần Đ, Trần Thế L, Tăng Ngọc T, Văn T1
phạm ti “Giết người”.
Tuyên bố các bị cáo Phạm Quốc T2, Vũ Trần H, Nguyễn Hữu D phạm tội
“Gây rối trật tự công cộng”.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 38, điểm s khoản 1, 2 Điều 51
của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Án lệ số
59/2023/AL thông qua theo Quyết định s39/-CA ngày 24 tháng 02 năm
2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Xử phạt bị cáo Trần Vũ Đ 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày 31 tháng 7 năm 2023.
Xử phạt bị cáo Trần Thế L 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày 26 tháng 12 năm 2023.
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51;
điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), Án lsố 59/2023/AL thông qua theo Quyết định số 39/QĐ-CA ngày 24
tháng 02 năm 2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Xử phạt bị cáo Tăng Ngọc T 14 (mười bốn) năm . Thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày 23 tháng 12 năm 2023.
14
Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Án lệ số 59/2023/AL,
Xử phạt bị cáo Văn T1 13 (mười ba) năm. Thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày ngày 22 tháng 4 năm 2024.
Áp dụng khoản 1 Điều 318; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017),
Xử phạt bị cáo Phạm Quốc T2 01 (một) năm 03 (ba) tháng về tội “Gây
rối trật tự công cộng”. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù tại Bản
án số 91/2024/HS-ST ngày 28/5/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu
Một, tỉnh Bình Dương, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản
án 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày 08 tháng 12 năm
2023.
Áp dụng khoản 1 Điều 318; Điều 38, điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ
luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017),
Xử phạt bị cáo Trần H 01 (một) năm 03 (ba) tháng . Thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi nh án.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu D 01 (một) năm 03 (ba) tháng . Thời hạn
chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 585, 589, 591 Điều
593 của Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP
ngày 11 tháng 01 năm 2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật
về lãi, lãi suất, phạt vi phạm
Buộc các bcáo Trần Đ, Trần Thế L, Tăng Ngọc T, Văn T2 liên
đới bồi thường cho gia đình bị hại (do ông Nguyễn Hoàng T, Nguyễn Thị H
đại diện) s tiền mai ng là 164.500.000 đồng, tiền tn thất tinh thn là
234.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án, quyết định hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp quan thi hành án quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc k
từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án
theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015,
trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại
Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người
phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành
án, tnguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các
Điều 6, 7, 7a, 7b 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
15
3. Tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án số tiền 50.000.000 đồng
do ông Trần Ph (cha ruột của bị cáo Trần Đ) nộp khắc phục hậu quả cho
bị hại tại giấy nộp tiền ngày 15 tháng 5 năm 2024 của Ngân hàng TMCP Ngoại
Thương Việt Nam chi nhánh Bình Dương.
4. Về án phí: các bcáo Trần Đ, Tăng Ngọc T, Trần Thế L, Văn
T1, Phạm Quốc T2, Trần H, Nguyễn Hữu D mỗi bị cáo phải nộp 200.000
(hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sthẩm. Các bcáo Trần Đ, Trần
Thế L, Tăng Ngọc T, Văn T1 liên đới nộp 19.925.000 đồng tiền án phí dân
sự sơ thẩm.
Tải về
Bản án số 161/2024/HS-ST Bản án số 161/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 161/2024/HS-ST Bản án số 161/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất