Bản án số 60/2024/DS-ST ngày 13/09/2024 của TAND huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 60/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 60/2024/DS-ST ngày 13/09/2024 của TAND huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản về quyền sở hữu tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Hồng Dân (TAND tỉnh Bạc Liêu)
Số hiệu: 60/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN H
TỈNH BẠC LIÊU
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 60/2024/DS - ST
Ngày: 13/9/2024
V/v Tranh chấp nghĩa vụ hoàn trả hoa lợi.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Lệ Thu
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Hữu Em
2. Bà Ngô Hồng Xuân
- Thư phiên tòa: Hoàng Kha - Thư Toà án nhân dân huyện H,
tỉnh Bạc Liêu.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên
tòa: Danh Đạt - Kiểm sát viên.
Trong ngày 13 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện H xét
xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số: 118/2023/TLSTDS, ngày 04 tháng 7 năm
2023 về việc tranh chấp nghĩa vụ hoàn trả hoa lợi theo quyết định đưa vụ án ra xét
xử số: 26/2024/QĐXXST–DS, ngày 26 tháng 4 năm 2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần ThH, sinh năm 1952. Địa chỉ: Ấp N, NA, huyện
H, tỉnh Bạc Liêu, (có mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Châu Phi Đô
Trgiúp viên pháp Nhà ớc thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh
Bạc Liêu, (có mặt).
2. Bị đơn: Ông Phạm Minh H1, sinh năm 1963. Địa chỉ: Ấp N, NA, huyện
H, tỉnh Bạc Liêu, (mặt).
3. Người có quyn li và nghĩa vụ liên quan:
- Trn Th C, sinh năm 1973. Địa ch: p 7, K, huyn U, tnh
Mau.
- Ông Trần Văn C1, sinh năm 1973. Địa ch: Khóm 2, th trn U, huyn U,
tnh Cà Mau.
- Trn Th Kiu T, sinh năm 1975. Địa ch: p N, N, huyn H, tnh
Bc Liêu.
2
- Bà Trn Th D, sinh năm 1977. Địa ch: p N, xã NA, huyn H, tnh Bc
Liêu.
- Ông Trần Văn H2, sinh năm 1981. Địa ch: p N NA, huyn H, tnh
Bc Liêu.
- Ông Trần Văn M, sinh năm 1985. Địa ch: p N, NA, huyn H, tnh
Bc Liêu.
- Bà Trn Th N, sinh năm 1978. Địa ch: p N, xã NA, huyn H, tnh Bc
Liêu.
- Người đi din theo y quyn của người quyn lợi nghĩa vụ liên
quan gm Trn Th C; Trần Văn C1; Trn Th Kiu T; Trn Th D; Trần Văn H;
Trần Văn M; Trn Th N là bà Trn Th H, sinh năm 1952. Địa chỉ: Ấp N, xã NA,
huyện H, tỉnh Bạc Liêu. (Văn bản ủy quyền ngày 02 tháng 10 năm 2023), (có mặt).
- Trn Bch N1, sinh năm 1965. Địa ch: p N, NA, huyn H, tnh
Bc Liêu, (có mt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 19 tháng 6 năm 2023 và trong quá trình giải quyết
vụ án, Trần Thị H nguyên đơn trình bày: Vợ chồng Trần Thị H
6.000m
2
đất trông lúa, tại thửa 556, tờ bản đồ số 13, tọa lạc tại ấp N, NA, huyện
H, tỉnh Bạc Liêu. Nguồn gốc đất do ông Nguyễn Văn T1 khai phá sử dụng sau đó
giao lại cho chính quyền địa phương quản , đến năm 1972 chính quyền địa
phương giao cho ông Phạm Minh Tr (cha của ông Phạm Minh H) sử dụng. Đến
1984 Nhà nước thành lập tập đoàn phân chia đất theo nhân khẩu. Gia đình ông
Tr thừa 6.000m
2
đất nên chính quyền địa phương lấy 6.000m
2
đất của ông T1 mà
trước đây giao cho ông Tr sử dụng giao lại cho vợ chồng H sử dụng bằng quyết
định số 277/QĐ-UB ngày 17 tháng 6 năm 1989 vviệc giao đất để sdụng vào
mục đích sản xuất nông nghiệp. Bà H sử dụng đến năm 1989 thì ông T1 giành lại
sử dụng nhưng không được, H tiếp tục sử dụng đến năm 1990 ông Phạm Minh
Tr Phạm Minh H1 chiếm lấy diện tích đất này sử dụng đến năm 1992, sang
năm 1993 chính quyền địa phương giải quyết buộc ông H1 trả đất cho sử dụng
đến nhưng khi gieo xạ lúa thì gia đình ông H1 phá chiếm đất lại sử dụng
đến nay. Ngày 01 tháng 01 năm 1996Hai được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất vào theo quyết định số 174/QĐ-UBND ngày 29/4/1994 của Ủy ban nhân
dân huyện H.
Không đồng ý với việc ông Tr và ông H1 chiếm dụng đất của mình vợ
chồng bà H yêu cầu đến cơ quan thẩm quyền giải quyết từ khi bchiếm đất đến
ngày 29 tháng 3 năm 2023 được Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu giải quyết bằng
Bản án số 61/2023/DS-PT tuyên buộc ông H1 và vợ là bà Trần Bạch N1 giao trả
diện tích đất tranh chấp cho bà H.
Do bị ông H1 chiếm dụng đất của bà H từ năm 1990 đến năm 2023 nên bà
không sử dụng được, vậy yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết buộc ông Phạm
Minh H1 bồi thường khoản hoa lợi trên đất tổng cộng 283.200.000 đồng (tính
3
bằng mức giá thuê đất). Tuy nhiên, sau khi tính toán lại, bà xin rút một phần yêu
cầu khởi kiện đối với số tiền hoa lợi là 117.490.000 và chỉ yêu cầu ông H1 thanh
toán số tiền hoa lợi là 165.710.000 đồng. Cụ thể: Từ năm 1990 đến năm 2000
10 năm x 400.000 đồng/năm/1.296m
2
= 18.510.000 đồng; từ năm 2000 đến năm
2010 10 năm x 600.000 đồng/năm/1.296m
2
= 27.600.000 đồng; từ năm 2011
đến năm 2015 là 05 năm x 1.200.000 đồng/năm/1.296m
2
= 27.600.000 đồng; từ
năm 2016 đến năm 2023 là 08 năm x 2.500.000 đồng/năm/1.296m
2
= 92.000.000
đồng. Ngoài ra, không còn yêu cầu nào khác.
Bị đơn ông Phạm Minh H1 trình bày: Nguồn gốc phần đất H cho
rằng ông H1 chiếm dụng của ông Nguyễn Văn Th khai psử dụng sau đó giao
lại cho chính quyền địa phương quản lý nhưng không có canh tác. Năm 1973 cha
ông H1 ông Phạm Minh Tr xin được chính quyền địa phương giao cho 01
phần khoảng 08 công tầm cấy để sản xuất nông nghiệp. Đến năm 1984 thì nhà
nước có chính sách đưa đất vào tập đoàn. Theo quy định về chính sách ruộng đất
khi đó thì gia đình ông Tr thừa 6.000m
2
đất nên nhà nước mới lấy 6.000m
2
đất tại
phần đất nói trên giao lại cho vợ chồng H sử dụng. Gia đình H canh tác
được từ năm 1984 đến 1985, năm 1986 H bỏ hoang đất không canh tác, đến
năm 1987 ông Tr lấy đất lại canh tác thì gia đình bà H ngăn cản phá blúa nên
năm này không bên nào canh tác được. Đến năm 1988 thì ông Tr canh tác đất liên
tục ổn định đến năm 1990 thì cho lại con ông H1 canh tác liên tục ổn định
không ai ngăn cản, tranh chấp. Quá trình sử dụng đất ông H1 nhiều lần đi
khai đăng xin cấp quyền sử dụng diện tích đất này nhưng không được cấp
quyền sử dụng. Đến năm 2007 thì vợ chồng H tranh chấp. Lúc này, ông H1
mới biết đất tranh chấp được cấp quyền sử dụng cho ông K. Ông H1 không đồng
ý trả đất nên tranh chấp kéo dài đến năm 2023 được Tòa án nhân dân tỉnh Bạc
Liêu giải quyết bằng Bản án số 61/2023/DS-PT tuyên buộc vợ chồng ông H1 giao
trả diện tích đất tranh chấp cho bà H. Ông H1 cho rằng nguồn gốc đất là của cha
ông cho nên ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của H về việc yêu cầu
ông bồi thường hoa lợi cho bà H. Ngoài ra, ông không có yêu cầu gì.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Bạch N1 trình bày:
N1 vợ ông Phạm Minh H1 cùng ý kiến với chồng không đồng ý trả tiền
hoa lợi cho bà Hnhư bà đã yêu cầu. Ngoài ra, không có yêu cầu gì.
Bà Trần Thị H là người đại diện theo ủy quyền của Trn Th C, Trần Văn
C1, Trn Th Kiu Th, Trn Th D, Trần Văn H2, Trần Văn M, Trn Th N
người quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày: Trn Th C, Trần Văn C1,
Trn Th Kiu Th, Trn Th D, Trần Văn H, Trần Văn M, Trn Th N không
yêu cu . Nếu yêu cu khi kin ca H đưc chp nhận thì đng ý giao li
cho bà H toàn b.
Ti phiên toà:
Ni bo v quyn li ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày: Phần
đất diện tích 6.000 m
2
tại số 556, tờ bản đồ số 13 đất tọa lạc tại ấp N, xã NA,
huyện H, tỉnh Bạc Liêu mà nguyên đơn bà Trần Thị H khởi kiện buộc ông Phạm
4
Minh H1 trả tiền hoa lợi trên đất thời gian 33 năm (tnăm 1990 đến năm 2023)
đã được Bản án thẩm số 50/2022/DSST ngày 18/7/2022 của Tòa án nhân dân
huyện H Bản án phúc thẩm số 61/2023/DS-PT ngày 29/3/2023 của Tòa án nhân
dân tỉnh Bạc Liêu có hiệu lực pháp luật công nhận đất là của vợ chồng bà H. Tại
các lời khai biên bản hoà giải ông H1 đều thừa nhận ông người sử dụng phần
đất từ năm 1990 đến năm 2023.
Theo quy định tại Điều 181 Bộ luật Dân sự 2015 về Chiếm hữu không ngay
tình việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết rằng mình không
có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu. Trường hợp này ông H1 hoàn toàn biết
rằng mình không quyền đối với phần đất tại số 556, tbản đsố 13 ông
chiếm hữu vì phần đất này, ông K (chồng bà H) đã được Nhà nước công nhận và
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Khoản 3 Điều 579 Bộ luậtn sự 2015 quy định về nghĩa vụ hoàn
trả: "Người được lợi về tài sản (có nghĩa chiếm hữu, người sử dụng tài sản của
người khác) không căn cứ pháp luật làm cho người khác bị thiệt hại thì
phải hoàn trả khoản lợi đó cho người bị thiệt hại”.
Trần Thị H yêu cầu ông Hiền trả hoa lợi với số tiền 165.710.000 đồng.
Mặc tại biên bản ghi lời khai ngày 11/01/2024 (BL 136) bà H thừa nhận không
có căn cứ, chỉ ước lượng giá thuê đất là 400.000 đồng/năm nhưng tại bút lục 109
H cung cấp 01kg lúa khô bằng 5.000 đồng. Vì vậy, nguyên đơn H khởi
kiện từ năm 1990-2000 ông H1 phải trả 01 năm 400.000 đồng (chưa được 100kg
lúa khô) là có căn cứ. Từ năm 2010 đến nay đất canh tác 01 năm 02 vụ (theo ông
H1 từ năm 2000 - 2010 năng xuất 02 vụ từ 30-40 giạ/năm; 2011 nay 55-70
giạ/năm), nếu tính theo giá thị trường hiện nay 01kg lúa là 6.800 đồng, 01 giạ lúa
khoảng 140.000 đồng (01 giạ từ 20-22kg), trong khi đó bà H yêu cầu trả tiền hoa
lợi (hoàn trả do được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật) 01 năm 2.400.000
đồng tương với 17 giạ lúa (01 từ 55-70 giạ lúa) và cũng phù hợp với lời trình bày
của các nhân chứng Nguyễn Văn T, Nguyễn Văn P, Nguyễn Văn Tr1 là hiện nay
đất xấu cho thuê khoảng 2.000.000 đồng/công.
Từ những phân tích và các sở luận cứ viện dẫn trên đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị H.
Trn Th H guyên đơn người đại din theo u quyn ca Trn
Th C; Trần Văn C1; Trn Th Kiu Th; Trn Th D; Trần Văn H; Trần Văn M;
Trn Th N trình bày: xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền hoa
lợi là 117.490.000 chyêu cầu ông H1 thanh toán số tiền hoa lợi 165.710.000
đồng. Ngoài ra, không yêu cầu khác cũng không bổ sung ý kiến tranh
luận gì đối với phần trình bày của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho bà.
Bị đơn ông Phạm Minh H1 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
Trần Bạch N2 trình bày: Ông không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của H,
không đồng ý trả hoa lợi cho H. Ngoài ra, ông không ý kiến tranh luận
gì khác.
5
Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng:
Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án
kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xnghị án đúng theo quy
định pháp luật. Từ khi Tòa án thụ vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử
nghị án thì các đương thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ của mình theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ một phần
yêu cầu khởi kiện của H về việc yêu cầu ông H1 thanh toán số tiền hoa lợi là
117.490.000 đồng bác yêu cầu khởi kiện của H về việc yêu cầu ông H1
thanh toán số tiền hoa lợi 165.710.000 đồng. Về án phí H phải chịu án phí
dân sự giá ngạch theo quy định pháp luật, H thuộc trường hợp người cao
tuổi và đã có đơn xin miễn án phí nên được miễn toàn bộ án phí.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ ván đã được xem
xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Trần Thị H yêu cầu ông Phạm
Minh H1 bồi thường hoa lợi cho bà do đất của bà bị ông H1 chiếm dụng trái pháp
luật từ năm 1990 đến năm 2023 bằng số tiền 283.200.200 đồng. Như vậy, đây là
tranh chấp về nghĩa vdân sự mà cụ thnghĩa vụ hoàn trả hoa lợi được quy
định tại Điều 581 Bộ luật Dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
được quy định tại khoản 14 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2]. Về quyền khởi kiện của đương sự: Trước đây, ông K (chồng H)
và ông H1 đã từng xảy ra tranh chấp quyền sử dụng đất và được Toà án nhân dân
huyện H xét xử thẩm tại Bản án số 50/2022/DS-ST ngày 18/7/2022 được
Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử phúc thẩm tại Bản án số 61/2023/DS-PT
ngày 29/3/2023. Khi tranh chấp đất, ông K (chồng H) yêu cầu ông H1 thanh
toán hoa lợi với số tiền 180.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên toà thẩm (sau khi ông K chết), H xin rút yêu cầu khởi kiện về việc
yêu cầu ông H1 thanh toán số tiền hoa lợi 180.000.000 đồng nên Toà án cấp sơ
thẩm và phúc thẩm đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông K về việc yêu cầu ông H1
bồi thường hoa lợi. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 218 Bộ luật Tố tụng dân sự, bà H
được quyền khởi kiện lại vụ án yêu cầu ông H1 bồi thường hoa lợi.
[1.3] Về thẩm quyền của Tòa án: Do đây tranh chấp vdân sthuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án được quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự;
khi bà H khởi kiện thì bị đơn là ông Phạm Minh H1 có địa chỉ cư trú tại ấp N, xã
NA, huyện H, tỉnh Bạc Liêu nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện H
theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
6
[2.1] Tại đơn khởi kiện, H yêu cầu ông H1 thanh toán cho số tiền hoa
lợi là 283.200.000 đồng. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại
phiên toà, bà H có ý kiến xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với số tiền hoa
lợi là 117.490.000 chyêu cầu ông H1 thanh toán số tiền hoa lợi 165.710.000
đồng. Việc bà H xin rút một phần yêu cầu khởi kiện là do bà H tự nguyện, không
bị ai ép buộc. vậy, Hội đồng xét xcăn cứ Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự
đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà H về việc yêu cầu ông H1 thanh toán
số tiền hoa lợi là 117.490.000.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Trần Thị H về việc yêu cầu
ông H1 thanh toán số tiền hoa lợi là 165.710.000 đồng.
[2.2.1] Bà H cho rằng bị đơn ông Phạm Minh H1 chiếm dụng 6.000m
2
đất
của không căn cứ pháp luật trong khoản thời giang 33 năm (từ năm 1990
đến năm 2023). Do đó, bà yêu cầu ông Phạm Minh H1 bồi thường cho khoản
hoa lợi trên đất của bằng tổng số tiền 165.710.000 đồng. Phần đất mà bà H yêu
cầu ông H1 trả hoa lợi là phần đất tại thửa số 556, tờ bản đồ số 13, diện tích
6.000m
2
, tọa lạc tại ấp N, xã NA, huyện H, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ Bản án dân sự
phúc thẩm số 61/2023/DS-PT ngày 29/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu
(bản án hiệu lực pháp luật đã được các bên tự nguyện thi hành xong) thì
phần đất này được Uỷ ban nhân dân huyện H giao cho ông K (chồng bà H) tại
Quyết định số 277/QĐ-UB ngày 17/6/1989 về việc giao đất để sử dụng vào mục
đích sản xuất nông nghiệp ông Trần Văn K đã được cấp Giấy chứng nhân
quyền sử dụng đất số 07692/QSDĐ ngày 01/01/1996.
[2.2.2] Bản thân ông H1 ng thừa nhận phần đất tại thửa số 556, tờ bản đồ
số 13, diện tích 6.000m
2
, tọa lạc tại ấp N, xã NA, huyện H, tỉnh Bạc Liêu là phần
đất dư ra của gia đình ông so với quy định nhà nước nên Uỷ ban nhân dân huyện
đã lấy để giao cho vợ chồng bà H vào năm 1984. Như vậy, ông H1 hoàn toàn biết
việc phần đất nêu trên không còn thuộc sở hữu của gia đình mình từ thời điểm
năm 1984. Đồng thời, vào năm 1990, giữa vợ chồng bà H gia đình ông Tr (cha
ông H1) xảy ra tranh chấp đối với phần đất này nên ông H1 hoàn toàn biết việc
gia đình ông không có quyền đối với phần đất nêu trên. Do đó, căn cứ Điều 181
Bộ luật dân sự thì việc ông H1 chiếm hữu phần đất tại thửa số 556, tờ bản đồ số
13, diện tích 6.000m
2
, tọa lạc tại ấp N, NA, huyện H, tỉnh Bạc Liêu từ năm
1990 đến năm 2023 là chiếm hữu không ngay tình.
[2.2.3] Về quá trình sử dụng đất: Nguyên đơn bị đơn thống nhất xác
định, đất này ông H1 sử dụng để canh tác lúa từ năm 1990 đến năm 2023. Đây là
tình tiết, sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 Bộ luật Tố
tụng dân sự. Do đó, có căn cứ xác định việc ông H1 chiếm hữu không có căn cứ
đối với phần đất thuộc thửa số 556, tờ bản đồ số 13, diện tích 6.000m
2
, tọa lạc tại
ấp N, xã NA, huyện H, tỉnh Bạc Liêu từ năm 1990 đến năm 2023 là xảy ra trên
thực tế.
[2.2.4] Về hoa lợi bà H yêu cầu ông H1 hoàn trả: Bà Hai tính bằng mức giá
thuê đất, cụ thể: T năm 1990 đến năm 2000 10 năm x 400.000
7
đồng/năm/1.296m
2
= 18.510.000 đồng; tnăm 2000 đến năm 2010 10 năm x
600.000 đồng/năm/1.296m
2
= 27.600.000 đồng; từ năm 2011 đến năm 2015 là 05
năm x 1.200.000 đồng/năm/1.296m
2
= 27.600.000 đồng; tnăm 2016 đến năm
2023 08 năm x 2.500.000 đồng/năm/1.296m
2
= 92.000.000 đồng. Tổng cộng
số tiền hoa lợi H yêu cầu ông H1 hoàn trả 165.710.000 đồng. Tại biên bản
xác minh người làm chứng ngày 19/8/2024 thì ông Nguyễn Văn T, ông Nguyễn
Văn P ông Nguyễn Văn Tr1 đều xác định phần đất mà bà H đòi ông H1 trả hoa
lợi là đất trũng, đất xấu và giá thuê đất tại khu vực ấp N từ năm 2000 đổ về trước
bao nhiêu thì các ông không thời điểm đó đất xấu không ai thuê. Riêng
giá thuê đất từ năm 2001 đến 2023 tlời khai các nhân chứng không phù hợp với
nhau thấp hơn với cách tính tiền hoa lợi H trình bày. Ngoài các lời khai nhân
chứng thì H không chứng cứ chứng minh về số tiền hoa lợi bị mất
trong quá trình ông H1 chiếm dụng đất của bà như yêu cầu. Do đó, bà H không
có căn cứ chứng minh số tiền hoa lợi mà ông H1 có được từ việc chiếm dụng đất
của bà trong thời gian từ năm 1990 đến năm 2023 là 165.710.000 đồng.
[2.2.4] Đồng thời, tại dòng thứ 11 từ trên xuống trang 10 của Bản án dân
sự phúc thẩm s61/2023/DS-PT ngày 29/3/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc
Liêu nội dung nhận định “Ông Tr (cha ông H1) đã công bồi đắp, cải tạo
làm tăng giá trị phần đất tranh chấp quá trình sử dụng đất vợ chồng ông Phạm
Minh H1 Trần Bạch N1 cũng công bồi đắp, cải tạo làm tăng giá trị phần
đất tranh chấp như hiện nay nên cần phải xem xét đến công sức bồi đắp, cải tạo
đất của gia đình ông H1. Cấp sơ thẩm buộc bà Trần Thị H có nghĩa vụ hoàn trả
cho Phạm Minh H1 Trần Bạch N1 công cải tạo đất sở, tuy nhiên
quyết định tỉ lệ ½ giá trị quyền sử dụng đất 163.320.000 đồng là chưa phù hợp
bởi lmặc gia đình ông H1 cũng công sức bồi đắp làm tăng giá trị đất
nhưng vợ chồng ông H1 cũng đã hưởng phần hoa lợi trong suốt quá trình sử dụng
đất nên chỉ có cơ sở chấp nhận một phần công sức cải tạo đất cho ông H1 với tỉ
lệ ¼ giá trị quyền sử dụng đất tương đương số tiền 81.660.000 đồng.”. Như vậy,
mặc dù cấp phúc thẩm đình chyêu cầu khởi kiện của ông K (chồng H) về việc
yêu cầu ông H1 bồi thường hoa lợi với số tiền 180.000.000 đồng nhưng khi xem
xét công cải tạo, bồi đắp của phía ông H1 tđã xem xét đến việc ông H1 được
hưởng phần hoa lợi trên đất trong suốt quá trình chiếm dụng đất nên chỉ buộc bà
H thanh toán một phần chứ không phải toàn bộ công bồi đắp, cải tạo đất cho ông
H1.
[2.2.5] Sau khi xét xử phúc thẩm, các bên đương sự đã tự nguyện thi hành
xong bản án phúc thẩm, phía bà H cũng như các con H không khiếu nại hay
yêu cầu giám đốc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm s61/2023/DS-PT ngày
29/3/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu. vậy, căn cứ cho rằng H
các con H đồng tình với toàn bộ nội dung bản án phúc thẩm số 61/2023/DS-
PT ngày 29/3/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bạc Liêu.
[2.6] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của H đối với ông H1 về việc yêu cầu ông H1 thanh
toán số tiền hoa lợi là 165.710.000 đồng.
8
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của bà H không được chấp nhận nên
H phải chịu toàn bộ án phí dân sthẩm gngạch 8.285.500 đồng. Tuy
nhiên, H người cao tuổi đơn xin miễn án phí nên được miễn toàn bộ
án phí. Ông H1 không phải chịu án phí.
[4] Về ý kiến phát biểu của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho
nguyên đơn không có căn cứ nên không được chấp nhận.
[5] Về ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án, phù
hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 14 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; khoản 1, 3 Điều 45; Điều 147; Điều 217; Điều 218; khoản 1 Điều 244; Điều
271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 181, 579, 581 Bộ luật Dân sự;
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; điểm b khoản 1 Điều 24
khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H về việc yêu cầu ông Phạm
Minh H1 hoàn trả số hoa lợi là 165.710.000 đồng.
2. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của bà H về việc yêu cầu ông Phạm Minh H1
hoàn trả số hoa lợi là 117.490.000 đồng.
3. Về án phí dân sự thẩm: Trần Thị H phải chịu toàn bộ án pdân
sự sơ thẩm giá ngạch là 8.285.500 đồng. Bà Trần Thị H người cao tuổi
có đơn xin miễn án phí nên được miễn toàn bộ án phí.
4. Về quyền thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi
hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án
dân sự, người phải thi hành án dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu
cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy
định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được
thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Án xử thẩm, công khai, các đương scó mặt tại phiên toà được quyền
kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bạc Liêu ;
- VKSND huyện H;
- Chi cục THADS huyện H;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Lệ Thu
9
Tải về
Bản án số 60/2024/DS-ST Bản án số 60/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 60/2024/DS-ST Bản án số 60/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất