Bản án số 72/2025/DS-PT ngày 04/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 72/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 72/2025/DS-PT ngày 04/03/2025 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đắk Lắk
Số hiệu: 72/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 04/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận yêu câu kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Trung T và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Kiêm P. Giữ nguyên bản án dân sư sơ thẩm số 194/2024/DSST ngày 23/8/2024 của Tòa án nhân dân thành phố BMT, tỉnh Đắk Lắk
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐẮK LẮK Độc lập - Tự do - Hạnh P
Bản án số: 72/2025/DS-PT
Ngày: 04/3/2025
V/v “Tranh chấp các hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử P thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Bằng
Các thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Nhung
Ông Nguyễn Sỹ Thành
- Tphiên tòa: Ông Hoàng Vấn - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên toà:
Lương Thị Diệu Anh - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 04 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử P
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 453/2024/DS-PT ngày 11 tháng 12 năm 2024
về việc “Tranh chấp các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu”. Do
bản án dân sự sơ thẩm số: 194/2024/DS-ST ngày 23/8/2024 của Tòa án nhân dân
thành phố M bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xsố: 24/2025/QĐXX-PT ngày 23/01/2025,
Quyết định hoãn phiên toà số: 36/2025/QĐ-PT ngày 19/02/2025, giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn: Ông Hoàng Trung T, sinh năm 1979; Địa chỉ: Khối 15,
phường K, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn là: Ông Trần Đức
P Luật sư Nguyễn Minh C. Luật thuộc Công ty luật TNHH V, thuộc đoàn
Luật thành phố C. Địa chỉ: Số 50/25/1 Hiệu, phường T, quận P, thành phố
Hồ Chí Minh.
2. Bị đơn: Ông Tằng Lẫy H, sinh năm 1982 Phạm Quỳnh M, sinh
năm1984. Cùng địa chỉ: Số 148, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
- Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn là: Ông Dương Quang T; Địa chỉ:
Số 55, thị trấn S, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Văn phòng công chứng Đ; Địa chỉ: Số 38, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk,
Vắng mặt.
- Người đại diện theo ủy quyền: Nguyễn Thị Minh P. Địa chỉ: Số 02,
thành phố M, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt.
3.2. Trương Thị Kim P; Địa chỉ: Chung H, thành phố M, tỉnh Đắk
Lắk, có mặt.
3.3. Đặng Thị Thu T; Địa chỉ: Số 27, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk, mặt.
2
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Hoàng Trung T người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Kim P.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện và q trình tham gia t tng tại Tòa án, nguyên
đơn ông Hoàng Trung T trình bày:
Ông Hoàng Trung T Trương Thị Kim P mối quan hệ vợ chồng
tại thời điểm ký 04 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông
Tằng Lẫy H Phạm Quỳnh M (ngày 08/12/2022, ông T P ly hôn theo
Quyết định số 592/2022/QĐST-HNGĐ của Tòa án nhân dân thành phố M), 04 hợp
đồng đều được công chứng tại Văn phòng Công chứng Đ, cụ thể:
1. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013438 ngày
13/5/2022, đối với thửa đất số 491, tại hợp đồng ghi giá trị chuyển nhượng
400.000.000 đồng;
2. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013491 ngày
14/5/2022, đối với thửa đất số 481, tại hợp đồng ghi giá trị chuyển nhượng
460.000.000 đồng;
3. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013490 ngày
14/5/2022, đối với thửa đất số 484, tại hợp đồng ghi giá trị chuyển nhượng
100.000.000 đồng;
4. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013489 ngày
14/5/2022, đối với thửa đất số 482 (nguyên đơn không nhớ số tiền chuyển nhượng,
hiện thửa đất này phía bị đơn đã sang tên lại cho nguyên đơn nên không yêu cầu
giải quyết trong vụ án).
Do bà P và bà Đặng Thị Thu T có mối quan hệ làm ăn với nhau và cần vay
tiền nên khoảng đầu tháng 05/2022, P nói với ông T là cần ông T ký tên vào 04
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên để tạo niềm tin với bên cho
vay (là vợ chồng ông H M), nhưng người vay tiền Đặng Thị Thu T (bạn
của bà P). Ngày 13/5/2022, P thuyết phục ông T tên vào 04 hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, các bên thỏa thuận sẽ không tiến hành công
chứng hợp đồng. Việc vay ợn tiền giữa bà T, P với ông H, bà M như thế nào
thì ông T không biết.
Về thời gian, địa điểm công chứng 04 hợp đồng nêu trên: o chiều ngày
13/5/2022, theo yêu cầu của P thì ông T đồng ý ký tên vào 04 hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nêu trên, địa điểm tại Văn phòng Thừa phát lại Đ,
không phải tên tại Văn phòng Công chứng Đ không ký tên trước mặt Công
chứng viên.
Về việc giao, nhận tiền chuyển nhượng: Do các hợp đồng chỉ để tạo niềm
tin với bên cho vay, mặt khác bà P cũng không vay tiền nên ông T đã đồng ý 04
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, với mong muốn chiều lòng vợ để hàn
gắn quan hệ hôn nhân trước đó vợ chồng một số mâu thuẫn. Giá chuyển
nhượng ghi tại 04 hợp đồng như nêu trên chỉ nhằm hợp thức hóa hợp đồng, còn tại
sao lại ghi giá trị chuyển nhượng như vậy thì ông T không biết. Từ trước đến nay,
ông T và bà P là người trực tiếp quản lý, sử dụng đối với quyền sử dụng đất và tài
3
sản gắn liền với đất thuộc thửa 481, 491 484, tờ bản đồ 114, tại phường Ea Tam,
thành phố M, không bàn giao quyền sử dụng đất cho cá nhân, tổ chức nào.
Trên cơ sở đó, nguyên đơn khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố vô
hiệu đối với 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa 481, 491 và 484,
do đây các hợp đồng giả tạo nhằm che giấu giao dịch vay tài sản giữa bên vay
Trương Thị Kim P, Đặng Thị Thu T bên cho vay là ông Tằng Lẫy H,
Phạm Quỳnh M.
Về giải quyết hậu quả của hợp đồng hiệu: Do việc chuyển nhượng
không thật, các bên không giao nhận tiền chuyển nhượng nên yêu cầu Tòa án
hủy đăng ký biến động việc chuyển nhượng sang tên cho bị đơn, khôi phục lại giá
trị pháp của các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Hoàng Trung
T Trương Thị Kim P. Đối với ý kiến của bị đơn cho rằng đã trả số tiền
9.000.000.000 đồng tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu bị đơn
cung cấp các chứng từ, biên nhận chuyển tiền.
* Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Tằng Lẫy H, Phạm Quỳnh M
và đại diện theo ủy quyền của ông Dương Quang T trình bày:
Vợ chồng ông Tằng Lẫy H, Phạm Quỳnh M quen biết với vợ chồng ông
Hoàng Trung T, bà Trương Thị Kim P. Vào ngày 13 14/5/2022, vchồng ông H,
bà M thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng ông T, bà P
các thửa đất số 481, 491 484. Việc thỏa thuận mua bán là hoàn toàn tự nguyện,
sau khi thỏa thuận thống nhất các nội dung, các bên ký tên vào 03 hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, giao kết tại Văn phòng Công chứng Đ trước mặt Công
chứng viên theo quy định.
Các bên thỏa thuận giá chuyển nhượng cả 03 thửa đất là 9.000.000.000 đồng
(thỏa thuận giá trị mua bán tính theo đơn vị sào, không xác định cụ thể giá đối với
từng thửa đất, vì các quyền sử dụng đất có hình dạng, kích thước phức tạp). Sau khi
ký hợp đồng chuyển nhượng, ông H và bà M đã trả toàn bộ số tiền nêu trên cho bên
chuyển nhượng bằng 02 hình thức là trả tiền mặt và chuyển khoản theo stài khoản
ngân hàng mà bà P chỉ định, cụ thể: Bên chuyển nhượng yêu cầu bị đơn phải thanh
toán 4.500.000.000 đồng bằng hình thức chuyển khoản thông qua số tài khoản
bên chuyển nhượng cung cấp, cụ thể số tài khoản của bà Đặng Thị Thu T vào
ngày 13/5/2022 (theo chứng từ chuyển khoản mà bị đơn đã giao nộp cho Tòa án);
4.500.000.000 đồng còn lại bên chuyển nhượng yêu cầu bên nhận chuyển nhượng
thanh toán bằng tiền mặt, ngay sau khi các bên ký hợp đồng được công chứng theo
quy định vào ngày 14/5/2022.
Giá chuyển nhượng nêu trên bao gồm trị giá quyền sử dụng đất và toàn bộ tài
sản gắn liền với đất (cây trồng tài sản khác gắn liền với đất). Sau khi hợp đồng
chuyển nhượng, bên chuyển nhượng đã bàn giao toàn bộ quyền sử dụng đất tài
sản trên đất cho ông H bà M (chỉ ranh giới 03 thửa đất, các tài sản gắn liền với
đất). Tuy nhiên, các bên thỏa thuận ông H và bà M đồng ý cho ông Hoàng Trung T
Trương Thị Kim P thời hạn 03 tháng (kể từ ngày hợp đồng chuyển nhượng
được công chứng) để di dời một số tài sản (nhà gỗ, mái tôn đã không còn giá
trị...) và bàn giao tài sản cho ông H và bà M (thỏa thuận bằng miệng, không lập văn
bản).
4
Đối với ý kiến của nguyên đơn cho rằng việc chuyển nhượng quyền sử dụng
đất là không có thật, nhằm mục đích che giấu giao dịch vay tài sản giữa bên vay bà
Đặng Thị Thu T, Trương Thị Kim P bên cho vay là ông Tằng Lẫy H, Phạm
Quỳnh M không căn cứ, yêu cầu nguyên đơn cung cấp tài liệu, chứng cứ để
chứng minh; đối với nội dung tin nhắn thông qua ứng dụng Zalo giữa Đặng Thị
Thu T Phạm Quỳnh M (bà T giao nộp cho Tòa án ngày 23/4/2024) không liên
quan đến vụ án này, H nữa chỉ có nội dung tin nhắn một chiều từ phía T, không
có tin nhắn xác nhận của bà M.
Đối với Vi bằng số 40 ngày 12/5/2022 của Văn phòng Thừa phát lại Đ, để xác
nhận khoản vay của bà Đặng Thị Thu T đối với vợ chồng ông Tằng Lẫy H, bà Phạm
Quỳnh M, không liên quan đến vụ án này. Số tiền T vay của bị đơn không liên
quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hoàng Trung T,
Trương Thị Kim P và bị đơn, vì việc vay tiền thực hiện trước khi các bên giao kết
các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
vậy, bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
tuyên bố 3 hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất nêu trên hiệu, đề nghị
Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Kim P trình
bày:
Giữa P và bà Đặng Thị Thu T có mi quan hệ làm ăn chung với nhau. Do
cần tiền làm ăn nên P và bà T được Dương Thị Lệ Anh (trú tại số nhà 442/22
Y Moan, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk) giới thiệu với vợ chồng ông Tằng Lẫy H để
vay tiền. Để vay được tiền, bà P nhờ ông Hoàng Trung T ký tên vào 04 hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Đặng Thị Thu T và ông Đặng Xuân N
tên vào 02 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (trong đó có 03 quyền sử
dụng đất thửa 481, 491 484) để làm tin, các bên thỏa thuận giao toàn bộ các hợp
đồng đã công chứng cho vợ chồng ông H, bà M giữ đđảm bảo khả năng trả nợ
của bà P và bà T.
Việc giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tự nguyện,
nhưng chỉ nhằm mục đích đảm bảo việc vay tiền. Các bên thỏa thuận 06 hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất công chứng theo quy định của pháp
luật (thỏa thuận không thực hiện việc sang tên trong thời hạn 06 tháng), sau khi
công chứng hợp đồng chuyển nhượng, P giao toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng
đã công chứng bản gốc Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông H M
giữ để làm tin, c bên thỏa thuận trong thời hạn 06 tháng ktừ ngày 13/5/2022
phía ông H không được làm thủ tục đăng ký biến động đối với các quyền sử dụng
đất (cả 06 thửa, trong đó có thửa 481, 491 và 484).
Tuy nhiên, chưa hết thời hạn nêu trên, ông H M đã thực hiện thủ tục
đăng ký biến động sang tên các quyền sử dụng đất nêu trên, là vi phạm thỏa thuận
về việc vay mượn tiền. Bà P bà T vay số tiền 9.000.000.000 đồng của ông H
M, lãi suất 2.500 đồng/triệu/ngày, thời hạn vay 06 tháng, từ ngày 13/5/2022 đến
ngày 13/11/2022; người nhận khoản tiền vay 9.000.000.000 đồng Đặng Thị
Thu T, được xác định tại Vi bằng số 40 ngày 12/5/2022 của Văn phòng Thừa phát
lại Đ. Toàn bộ các nội dung thỏa thuận vay tiền, ký các hợp đồng chuyển nhượng
quyền sdụng đất nêu trên, P những người liên quan chỉ thỏa thuận bằng
5
miệng mà không văn bản, giấy tgì. Tuy nhiên, Đặng Thị Thu T thỏa
thuận với ông H, bà M về các nội dung nêu trên thông qua ứng dụng mạng xã hội
“Zalo”, như tài liệu mà bà T đã giao nộp cho Tòa án ngày 23/4/2024.
Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng
Trung T, vì việc xác lập 03 hợp đồng chuyển nhượng nêu trên không thật, các
bên không thực hiện việc giao nhận tiền chuyển nhượng và không giao đất.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Đặng Thị Thu T trình bày:
Vào tháng 5/2022, thông qua sự giới thiệu của Dương Thị Lệ Anh, T
quen biết với ông Tằng Lẫy H Phạm Quỳnh M. Do mối quan hệ làm
ăn chung với nhau nên ngày 12/5/2022 T P vay của ông H, M s
tiền 4.500.000.000 đồng (theo Vi bằng số 40 của Văn phòng Thừa phát lại Đ)
ngày 13/5/2022 vay tiếp 4.500.000.000 đồng. Tổng số tiền T P vay của
ông H, M 9.000.000.000 đồng, thời hạn vay 6 tháng, trong đó: T vay
3.950.000.000 đồng, P vay 5.050.000.000 đồng. Việc vay tiền lãi suất, cụ thể
2.500 đồng/triệu/ngày, ngay sau khi vay bà T P đã trả trước số tiền lãi
675.000.000 đồng.
Để đảm bảo việc thanh toán khoản vay, phía ông H M yêu cầu bà T và
bà P phải ký tên vào 06 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, trong đó: 04
thửa đất của ông T P (trong đó thửa 481, 491 và 484), 01 thửa đất đứng
tên bà T và 01 thửa đất đứng tên ông Đặng Xuân Ngọc (tại thời điểm ký hợp đồng
chuyển nhượng, ông Ngọc người yêu của T). Tính đến nay, bà T và P đã
trả được cho ông H và bà M số tiền lãi là 825.000.000 đồng, chưa thanh toán được
khoản ngốc nào. Như vậy, việc các bên giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất chỉ nhằm mục đích đảm bảo việc trả khoản tiền vay của bà T bà P
cho ông H và bà M, nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn.
Tại thời điểm T P vay tiền của bị đơn, các bên lập văn bản về
việc thỏa thuận vay tiền dùng 06 quyền sử dụng đất để làm tin như trình bày
nêu trên. Tuy nhiên, tài liệu này do ông Tằng Lẫy H giữ nên bà T không giao nộp
cho Tòa án được; ngày 23/4/2024, T đã giao nộp nội dung tin nhắn giữa T
Phạm Quỳnh M (thông qua ứng dụng zalo) vviệc thế chấp 06 quyền sử
dụng đất để vay số tiền 9.000.000.000 đồng và về số tiền lãi 01 tháng mà bà T đã
chuyển trả trước cho bà M.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng Công chứng Đ
Đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị Minh P trình bày:
Dựa trên sự thỏa thuận của các bên về các điều khoản trong hợp đồng công
chứng bao gồm các điều khoản vđối tượng chuyển nhượng, giá chuyển nhượng
và phương thức thanh toán.
Sau khi kiểm tra hồ sơ có liên quan, Văn phòng Công chứng Đ đã soạn T 03
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho các bên. Trước khi công chứng
hợp đồng, Công chứng viên đã giải thích cho các bên về quyền, nghĩa vụ của
mình khi tiến hành giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất, các bên đã đọc
đồng ý toàn bộ nội dung của c hợp đồng sau đó mới tên. Việc công chứng các
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên hoàn toàn đúng theo quy định
6
của pháp luật về công chứng và nội dung các điều khoản trong hợp đồng đều dựa
trên ý chí tự nguyện của các bên.
Do vậy, việc nguyên đơn ông Hoàng Trung T khởi kiện yêu cầu tuyên bố 03
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên vô hiệu là không có căn cứ,
đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Trong quá
trình giải quyết vụ án các đương sự thống nhất với kết quả xem xét, thẩm định tại
chỗ thẩm định giá tài sản đối với 03 quyền sử dụng đất nêu trên (bút lục 405),
cụ thể: Trị giá quyền sdụng đất tài sản gắn liền với đất thửa đất số 481, 491
và 484 lần lượt là: 6.101.975.000 đồng, 3.485.687.000 đồng và 859.891.000 đồng.
Tại bản án dân sự thẩm số: 194/2024/DS-ST ngày 23/08/2024 của Tòa
án nhân dân thành phố M, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;
các Điều 147, 157, 165, 266, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 117,
500, 501, 502 và 503 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 188 Luật đất đai năm 2013;
khoản 3 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Trung T,
về việc yêu cầu tuyên bố hiệu đối với 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất sau:
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa bên chuyển nhượng ông
Hoàng Trung T, Trương Thị Kim P với bên nhận chuyển nhượng ông Tằng Lẫy
H, bà Phạm Quỳnh M đối với thửa đất số 491, tờ bản đồ 114, tại phường Ea Tam,
thành phố M, tỉnh Đắk Lắk (công chứng số 013438 ngày 13/5/2022, tại Văn phòng
Công chứng Đ).
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa bên chuyển nhượng ông
Hoàng Trung T, Trương Thị Kim P với bên nhận chuyển nhượng ông Tằng Lẫy
H, bà Phạm Quỳnh M đối với thửa đất số 481, tờ bản đồ 114, tại phường Ea Tam,
thành phố M, tỉnh Đắk Lắk (công chứng số 013491 ngày 14/5/2022, tại Văn phòng
Công chứng Đ).
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa bên chuyển nhượng ông
Hoàng Trung T với bên nhận chuyển nhượng ông Tằng Lẫy H, bà Phạm Quỳnh M
đối với thửa đất số 484, tờ bản đồ 114, tại phường Ea Tam, thành phố M, tỉnh Đắk
Lắk (công chứng số 013490 ngày 14/5/2022, tại Văn phòng Công chứng Đ).
Ngoài ra bản án thẩm còn giải quyết về chi ptố tụng, án phí, tuyên
quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi Toà án cấp sơ thẩm xét xử vụ án, ngày 05/09/2024, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan Trương Thị Kim P kháng cáo. Ngày 06/9/2024 nguyên
đơn ông Hoàng Trung T nộp đơn kháng cáo. Với nội dung kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm, theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện. Ngày 14/1/2025 nguyên đơn
ông T kháng cáo bổ sung yêu cầu hủy toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa P thẩm, nguyên đơn ông Hoàng Trung T giữ nguyên yêu cầu
khởi kiện và yêu cu kháng cáo. Nời có quyền lợi, nghĩa vụ ln quan Trương
Thị Kim P vẫn ginguyên nội dung kháng cáo.
7
Quá trình tranh luận tại phiên toà, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn đnghHội đồng t xử P thẩm hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk phát biểu quan điểm: Xét
thấy kháng cáo của ông Hoàng Trung T và Trương Thị Kim P là không có căn
cứ để chấp nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử P thẩm không chấp nhận yêu cầu kháng
cáo của nguyên đơn ông Hoàng Trung T người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Trương Thị Kim P, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 194/2024/DSST ngày
23/08/2024 của Tòa án nhân dân thành phố M.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu được thu thập trong hồ vụ án, kết
quả tranh luận tại phiên tòa, lời trình bày của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát
viên, Hội đồng xét xử P thẩm nhận định:
[1]. Đơn kháng cáo của ông Hoàng Trung T người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan Trương Thị Kim P là hợp lệ, đã nộp tiền tạm ứng án phí P thẩm nên
vụ án được giải quyết theo trình tự P thẩm.
[2]. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp Phúc thẩm nguyên đơn ông
Hoàng Trung T đơn yêu cầu đưa người vào tham gia tố tụng với cách người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan người làm chứng. Trước yêu cầu của người
kháng cáo, Tòa án đã lập biên bản yêu cầu ông Hoàng Trung T lập danh sách
những người mà ông T yêu cầu để làm bản tkhai giao nộp cho Tòa án bao gồm
những nội dung liên quan đến vụ án để từ đó làm căn cứ xác định cách tham gia
tố tụng. Tuy nhiên, hết thời hạn theo Thông báo số 61/2025/TB-TA ngày
23/01/2025 Tòa án vẫn không nhận được bản tkhai cũng như tài liệu chứng minh
nên không căn cứ để đưa những người như ông T trình bày vào tham gia tố tụng.
Gồm ông Nguyễn Quốc L, ông Đăng Xuân N, bà Dương Thị Lệ A, ông Đỗ Trọng
H, ông Đỗ Văn C và bà Phạm V.
[3]. Xét yêu cầu kháng cáo của Nguyên đơn ông Hoàng Trung T người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quanTrương Thị Kim P, yêu cầu sửa bản án dân sự
thẩm để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện kháng cáo bổ sung yêu cầu,
hủy bản án dân sư sơ thẩm, nhận thấy:
[3.1] Trong 02 ngày 13 và 14/5/2022 nguyên đơn ông Hoàng Trung T và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trương Thị Kim P đã thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất cho bị đơn vợ chồng ông Tằng Lẫy H, Phạm
Quỳnh M với các hợp đồng sau: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa
bên chuyển nhượng ông Hoàng Trung T, Trương Thị Kim P với bên nhận
chuyển nhượng ông Tằng Lẫy H, Phạm Quỳnh M, đối với thửa đất số 491, tờ
bản đồ 114, tại phường Ea Tam, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk (công chứng số 013438
ngày 13/5/2022, tại Văn phòng Công chứng Đ).
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng ông
Hoàng Trung T, Trương Thị Kim P với bên nhận chuyển nhượng ông Tằng Lẫy
H, bà Phạm Quỳnh M, đối với thửa đất số 481, tbản đồ 114, tại phường Ea Tam,
thành phố M, tỉnh Đắk Lắk (công chứng số 013491 ngày 14/5/2022, tại Văn phòng
Công chứng Đ).
8
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng ông
Hoàng Trung T với bên nhận chuyển nhượng ông Tằng Lẫy H, Phạm Quỳnh M,
đối với thửa đất số 484, tờ bản đồ 114, tại phường Ea Tam, thành phố M, tỉnh Đắk
Lắk (công chứng số 013490 ngày 14/5/2022, tại Văn phòng Công chứng Đ).
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số công chứng 013489 ngày
14/5/2022, đối với thửa đất số 482, tại phường Ea Tam, thành phố M, tỉnh Đắk
Lắk.
[3.2] Trong qtrình thực hiện các hợp đồng, nguyên đơn ông Hoàng Trung
T Trương Thị Kim P, đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị đơn ông
T và bà M, trên sở tnguyện thỏa thuận ghi họ tên vào 04 hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất để vay tiền của bị đơn ông H và bà M. Nvậy
khi kết các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, giữa bên chuyển
nhượng ông Hoàng Trung T, Trương Thị Kim P với bên nhận chuyển nhượng
ông Tằng Lẫy H, Phạm Quỳnh M, Đối với các thửa đất số: 481; 491 và 484 tờ
bản đồ 114, tại phường E, thành phố M, tỉnh Đắk Lắk (công chứng ngày 13
14/5/2022, tại Văn phòng Công chứng Đ). Được cấp đổi sang tên ông T, bà M vào
ngày 16/9/2022, các giao dịch trên giữa người chuyển nhượng người nhận
chuyển nhượng đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật cả về hình thức nội
dung.
Tại cấp sơ thẩm ông T, P T không cung cấp được tài liệu, chứng
cứ chứng minh về việc giao kết các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giả tạo. Đồng thời cũng không căn cứ để xác định hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nhằm che dấu một giao dịch khác. Mặt khác cả 04 hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên nguyên đơn ông T, P đều tnguyện thỏa
thuận, không ai ép buộc ai, không nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ 3 ngay tình. Nội dung này còn được chứng minh làm , hết thời hạn 03 tháng
kể từ ngày 13/5/2022, ông H, M đi đăng ký biến động sang tên quyền sử dụng
đất, bản thân nguyên đơn ông T trực tiếp đi làm thtục, tờ khai thuế thu nhập
nhân vào ngày 16/9/2022, đối với thửa đất số 484 cho người nhận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ông H, bà M (BL số 368). Bà P trực tiếp đi làm thủ tục, tờ khai
thuế thu nhập nhân vào ngày 16/9/2022, đối với thửa đất số 481 491 để cho
người nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ông H, bà M, được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (BL số 338, 339,340,387,388 và 389).
Nên kháng cáo và yêu cầu khởi kiện của ông T, bà P cho rằng khi ký vào 04
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên, để tạo niềm tin với bên cho vay
tiền là vợ chồng ông H, M, cho Đặng Thị Thu T vay tiền không có căn cứ.
[3.3] Nguyên đơn ông T, P kháng cáo cho rằng, Vi bằng số 40/2022/VB-
TPLĐA ngày 12/5/2022 được lập nội dung bà Đặng Thị Thu T vay tiền của ông
H, M với số tiền 4.500.000.000 đồng không nội dung nào nhắc đến ông T và
P, cũng không nội dung nào thỏa thuận việc xác lập các hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất của ông T, bà P với bà M ông H nhằm để che dấu một
giao dịch khác. Việc ông T, P chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bị đơn ông
H, bà M vào ngày 13 và 14/5/2022 là sau khi T lập vi bằng vay ợn tiền với
bà M, ông H, là có cơ sở.
9
[3.4] Nguyên đơn ông T, bà P kháng cáo cho rằng; Văn phòng công chứng
Đ đã tự ghép thêm trang số 4 vào các hợp đồng chuyển nhượng đất thành hợp đồng
công chứng không thực hiện tại Văn phòng công chứng, không sự chứng
kiến của Công chứng viên sai sự thật, giả mạo vi phạm pháp luật. Xét thấy đây
chỉ là lời trình bày của nguyên đơn ông T, ông T cũng không đưa ra được tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho lời trình y trên của nguyên đơn ông T căn cứ.
Mặt khác, trong hồ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quan thẩm
quyền cung cấp cho Tòa án thể hiện trong các hợp đồng chuyển nhượng đều được
ông T bà P, ông H bà M đều ký nháy từng trang của hợp đồng nên việc ông T,
P cho rằng thủ tục công chứng có dấu hiệu vi phạm pháp luật là không có căn cứ.
[4] Tại cấp P thẩm ông T cung cấp thêm nh ảnh chụp tin nhắn “Zalo”
“file” ghi âm các cuộc gọi. Tuy nhiên, theo ông T xác định các tin nhắn được thực
hiện giữa T một tài khoản tên Quỳnh Mvề giao dịch vay mượn giữa hai
bên và nội dung ghi âm cũng là giữa một người tên “Lập” và ông T, bà T, bà P về
việc đòi khoản nợ giữa các bên, không có cơ sở xác định các tài liệu chứng cứ này
có liên quan đến việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông T, bà P với ông
H, bà M.
[4.1] Nguyên đơn ông T cũng như người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
đơn yêu cầu kháng cáo bổ sung phải đưa thêm người vào tham gia tố tụng, để làm
bản chất nội dung vụ án về yêu cầu này đã được nhận định mục [2] phần
trên. Tại phần tranh luận các luật sư trình bày 07 căn cứ 06 tình tiết mà Tòa cấp
sơ thẩm trong quá trình thu thập chứng cứ còn thiếu và không khách quan, để hủy
bản án thẩm. Xét thấy những nội dung tranh luận các luật đưa ra, nhận
thấy trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, trong việc thu thập chứng cứ
đã tuân theo đúng quy định tại chương VII Bộ luật tố tụng dân sự và không làm
ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Nên không căn cứ để
chấp nhận yêu cầu kháng cáo bổ sung hủy bản án sơ thẩm.
Xét quan điểm về việc giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk
Lắk với nội dung đ nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của ông Hoàng Trung
T và Trương Thị Kim P, giữ nguyên bản án sơ thẩm, là phù hợp với nhận định
trên của Hội đồng xét xử P thẩm.
Từ những nhận định, phân tích từ mục [1] đến mục [4] nhận thấy không
căn cứ để chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Trung T người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Kim P, giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số:194/2024/DSST ngày 23/08/2024 của Tòa án nhân dân thành phố M, tỉnh
Đắk Lắk.
[5] Về án phí dân sự P thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
người kháng cáo ông Hoàng Trung T Trương Thị Kim P phải chịu án phí dân
sự P thẩm theo quy định của pháp luật được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí
đã nộp.
[5] Các quyết định khác của bản án thẩm không kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
10
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Hoàng Trung T
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trương Thị Kim P. Giữ nguyên Bản
án dân sự thẩm s: 194/2024/DSST ngày 23/08/2024 của Tòa án nhân dân thành
phố M, tỉnh Đắk Lắk.
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39;
các Điều 147, 157, 165, 266, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 117, 119, 500, 501, 502 503 Bộ luật dân sự năm 2015;
Điều 188 Luật đất đai năm 2013; khoản 3 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Trung T,
về việc yêu cầu tuyên bố hiệu đối với 03 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất sau:
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa bên chuyển nhượng ông
Hoàng Trung T, Trương Thị Kim P với bên nhận chuyển nhượng ông Tằng Lẫy
H, bà Phạm Quỳnh M đối với thửa đất số 491, tờ bản đồ 114, tại phường Ea Tam,
thành phố M, tỉnh Đắk Lắk (công chứng số 013438 ngày 13/5/2022, tại Văn phòng
Công chứng Đ).
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa bên chuyển nhượng ông
Hoàng Trung T, Trương Thị Kim P với bên nhận chuyển nhượng ông Tằng Lẫy
H, bà Phạm Quỳnh M đối với thửa đất số 481, tờ bản đồ 114, tại phường Ea Tam,
thành phố M, tỉnh Đắk Lắk (công chứng số 013491 ngày 14/5/2022, tại Văn phòng
Công chứng Đ).
+ Hợp đồng chuyển nhượng quyền sdụng đất giữa bên chuyển nhượng ông
Hoàng Trung T với bên nhận chuyển nhượng ông Tằng Lẫy H, bà Phạm Quỳnh M
đối với thửa đất số 484, tờ bản đồ 114, tại phường Ea Tam, thành phố M, tỉnh Đắk
Lắk (công chứng số 013490 ngày 14/5/2022, tại Văn phòng Công chứng Đ).
2. Về chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản sao lục hồ đất
đai:
Nguyên đơn ông Hoàng Trung T phải chịu 4.500.000 đồng chí phí xem xét,
thẩm định tại chỗ, 18.000.000 đồng chí phí thẩm định, định giá tài sản và 600.000
đồng chí phí sao lục hồ sơ đất đai. Toàn bộ các chi phí trên nguyên đơn ông Hoàng
Trung T đã nộp và đã chi phí xong tại Tòa án cấp sơ thẩm.
3. Về án phí:
3.1. Về án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Hoàng Trung T phải chịu
900.000 đồng án phí dân sự thẩm, được khấu trừ vào tổng số tiền 900.000 đồng
tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2021/0021261, ngày 07/9/2022 Biên
lai số AA/2022/0002823, ngày 19/6/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sthành phố
M, tỉnh Đắk Lắk.
Bị đơn ông Tằng Lẫy H Phạm Quỳnh M không phải chịu án phí dân
sự sơ thẩm.
11
3.2. Về án phí dân sự P thẩm: Nguyễn đơn ông Hoàng Trung T phải chịu
300.000 đồng án phí dân sự P thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền
tạm ứng mà ông đã nộp theo biên lai thu số AA/2023/0013553 ngày 23/9/2024 tại
Chi cục thi hành án dân sự thành phố M, tỉnh Đắk Lắk.
Trương Thị Kim P phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự P thẩm được
khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng mà bà đã nộp theo biên lai thu số
AA/2023/0013559 ngày 23/9/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố M,
tỉnh Đắk Lắk.
4. Các quyết định khác ca bản án sơ thẩm không b kháng cáo, kháng ngh
có hiu lc pháp lut k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND Tp. M;
- Chi cục THADS Tp. M;
- Đăng Cổng TTĐT TANDTC;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
(Đã ký)
Nguyễn Văn Bằng
Tải về
Bản án số 72/2025/DS-PT Bản án số 72/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 72/2025/DS-PT Bản án số 72/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất