Bản án số 208/2024/DS-PT ngày 23/12/2024 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 208/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 208/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 208/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 208/2024/DS-PT ngày 23/12/2024 của TAND tỉnh Bình Định về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Định |
Số hiệu: | 208/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 23/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Sửa bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH ĐỊNH Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số:208/2024/DS –PT
Ngày : 23 - 12 - 2024
V/v tranh chấp đòi lại tài
sản quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Tuấn
Các Thẩm phán: Ông Thái Văn Hà
Ông Võ Công Phương
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Nguyên Thủy là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa: Bà Lữ
Thị Xuân Dương – Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số:96/2024/TLPT-DS ngày 07 tháng 10 năm 2024 về
tranh chấp đòi lại tài sản quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 14/2024/DS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:186/2024/QĐ-PT ngày 04 tháng 11
năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn H , sinh năm 1972; cư trú tại: Thôn, xã N, huyện
P, tỉnh Bình Định. có mặt
- Bị đơn: Ông Trần Văn Ph, sinh năm 1974; cư trú tại: Thôn C, xã N, huyện P
Bình Định. có mặt
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Huỳnh Thị L, sinh năm 1968; cư trú tại: Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình
Định. có mặt
2
Đại diện theo ủy quyền của bà Loan: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972; cư trú
tại: Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định (văn bản ủy quyền ngày 25/8/2022) có mặt
2. Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1954; có mặt
3.Ông Bùi Xuân L, sinh năm 1976. vắng mặt
Cùng cư trú tại: Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình Địn.
Đại diện theo ủy quyền của ông L : Bà Nguyễn Thị C , sinh năm 1954; cư trú tại:
Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình Địn (văn bản ủy quyền ngày 26/4/2024) có mặt
4. Bà Bùi Thị Kim Li, sinh năm 1976; cư trú tại: Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh
Bình Địn. vắng mặt
5. Bà Bùi Thị Hi, sinh năm 1972; cư trú tại: Số 12.15K-A3 Chung cư HBP-TB,
phường H, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. vắng mặt
6. Bà Bùi Thị Á , sinh năm 1979; cư trú tại: Thôn H, xã N, huyện Cc, tỉnh Bà Rịa
– Vũng Tàu. vắng mặt
7. Bà Bùi Thị Lo, sinh năm 1983; cư trú tại: Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình
Địn. vắng mặt
8. Ông Bùi Xuân Ho, sinh năm 1988; cư trú tại: Tổ 49, khu phố 9A, phường Đ,
tỉnh Bình Định. vắng mặt
Đại diện theo ủy quyền của bà Hi, bà Á, bà Lo, ông Ho: Bà Nguyễn Thị C, sinh
năm 1954; cư trú tại: Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình Địn (văn bản ủy quyền ngày
19/10/2022) có mặt
- Người kháng cáo: Ông Trần Văn Phlà bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại bản khai và các lời khai tiếp theo của ông Nguyễn Văn H trình bày:
Ngày 14/6/2018 hộ bà Nguyễn Thị C chuyển nhượng cho vợ chồng ông Nguyễn
Văn H, bà Huỳnh Thị L thửa đất màu số 40, tờ bản đồ số 10 (nay là thửa 70, tờ bản đồ
số 7 theo bản đồ VLap), diện tích 637,6m
2
, vị trí thửa đất tại thôn Chánh Nhơn, xã Cát
Nhơn, huyện Phù Cát, đã làm thủ tục sang tên, Nhà nước đã cấp GCNQSDĐ cho vợ
chồng ông H, bà L theo Giấy chứng nhận số phát hành CN485569, số vào sổ CS07673
ngày 02/8/2018. Trước khi chuyển nhượng cho vợ chồng ông H, gia đình bà C có cho
vợ chồng ông Trần Văn Ph, bà Bùi Thị Kim Li thuê thửa đất nói trên trồng bạch đàn,
thời hạn thuê hết năm 2014. Năm 2018 hộ bà Công chuyển nhượng thửa đất nói trên
3
cho vợ chồng ông H. Bà C yêu cầu vợ chồng ông Ph, bà Li thu dọn bạch đàn để giao
trả đất cho vợ chồng ông H nhưng ông Ph, bà Li không thực hiện. Vợ chồng ông H
cũng đã nhiều lần yêu cầu ông Ph bà Li nhưng không thực hiện, vẫn chiếm đất trồng
bạch đàn, đã xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của vợ chồng ông Hường.
Nay ông Hường yêu càu vợ chồng ông Phước, bà Liên phải thu dọn, chặt toàn bộ số
cây bạch đàn đang trồng trên thửa đất nói trên để trả lại đất cho vợ chồng ông Hường.
Tại bản khai và các lời khai tiếp theo bị đơn ông Trần Văn Ph trình bày:
Thửa đất ông H đang tranh chấp, ông Ph thừa nhận nguồn gốc đất là của bà
Nguyễn Thị C, nhưng khoảng năm 2000 ông Bùi Xuân L con trai bà C đã bán cho ông
Phvới giá 400.000 đồng, ông Ph đã giao đủ tiền cho ông L, nhưng khi viết giấy ông L
không viết giấy bán đất mà lại viết cho ông Ph mướn đất, thời hạn mướn hết thời hạn
Nhà nước giao quyền cho hộ bà C, giấy bán đất ông L viết bản chính hiện nay ông Ph
đang giữ. Năm 2016 bà C có nhận thêm của ông Ph 1.000.000 đồng. Sau khi mua thửa
đất, ông Ph và vợ bà Bùi Thị Kim Li trồng bạch đàn, đã khai thác nhiều lứa. Hiện
Bạch đàn ông Phvẫn còn trên thửa đất nói trên. Vì thửa đất ông Lành đã bán cho ông
Ph nên nay thuộc quyền sử dụng hợp pháp của ông Ph, ông Ph không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện đòi lại đất của vợ chồng ông H và không chấp nhận thu dọn bạch đàn để
trả đất theo yêu cầu của vợ chồng ông H.
Tại bản khai và các lời khai tiếp theo người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Huỳnh Thị L trình bày:
Bà là vợ của ông Nguyễn Văn H bà thống nhất toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn ông Nguyễn Văn H.
Tại bản khai và các lời khai tiếp theo người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị C trình bày:
Hộ bà C được Nhà nước giao quyền sử dụng đất thửa đất màu, thửa số 40, tờ
bản đồ số 10, diện tích 549m
2
, GCNQSDĐ số phát hành: B 863654 ngày 26/5/1995, vị
trí thửa đất tại thôn Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định. Tháng 6/2018 hộ bà đã
chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Huỳnh Thị L ở thôn
Chánh Nhơn, xã Cát Nhơn. Trước khi chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng ông H,
bà L thửa đất nói trên gia đình bà Công có cho vợ chồng ông Trần Văn Ph bà Bùi Thị
Kim Li thuê trồng bạch đàn, thời hạn thuê đến hết năm 2014. Năm 2018, hộ bà chuyển
nhượng thửa đất cho vợ chồng ông H, bà L. Bà đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông Ph
thu don bạch đàn để trả đất cho vợ chồng ông H, nhưng đến hôm nay vợ chồng ông Ph
vẫn không trả đất. Bà thống nhất yêu cầu khởi kiện đòi đất của vợ chồng ông H, bà L
4
yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Ph, bà Li phải thu dọn toàn bộ số cây bạch đàn
đang trồng trên thửa đất nói trên để trả đất cho vợ chồng ông H, bà L sử dụng. Bà
không có nhận thêm 1.000.000 đồng của ông Ph năm 2016 như lời ông Ph trình bày.
Tại bản khai và các lời khai tiếp theo người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
ông Bùi Xuân L trình bày:
Năm 2006 ông có viết giấy cho ông Trần Văn Ph mướn thửa đất màu thửa số
40, tờ bản đồ số 10 của hộ bà C, thời hạn cho mướn hết thời hạn Nhà nước giao quyền
(hết năm 2014). Giá thuê mỗi năm 50.000 đồng, thời hạn thuê 08 năm là 400.000
đồng. Ông Ph đã giao 400.000 đồng cho ông. Sau khi thuê đất, vợ chồng ông Ph , bà
Li trồng bạch đàn. Khi hết thời hạn thuê, ông và mẹ là bà Công đã yêu cầu vợ chồng
ông Ph , bà Liên thu dọn bạch đàn để trả đất, nhưng vợ chồng ông Ph, bà Li không trả.
Năm 2018 hộ gia đình bà C đã chuyển nhượng thửa đất nói trên cho vợ chồng ông H,
bà L. Thửa đất nay thuộc quyền sử dụng hợp pháp của vợ chồng ông H, bà L. Ông
thống nhất toàn bộ yêu cầu khởi kiện đòi lại đất của vợ chồng ông Hường, bà Loan.
Ông yêu cầu vợ chồng ông Ph, bà Li phải thu dọn chặt bỏ toàn bộ số cây bạch đàn
đang rồng trên thửa đất nói trên để trả lại đất cho vợ chồng ông H, bà L được quyền sử
dụng.
Bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2024/DS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đã quyết định:
Chấp yêu cầu khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất của nguyên đơn ông Nguyễn
Văn H . Buộc vợ chồng ông Trần Văn Ph bà bà Bùi Thị Kim Li phải có nghĩa vụ thu
dọn, chặt toàn bộ số cây bạch đàn đang trồng trên thửa đất số 70, tờ bản đồ số 7 (theo
bản đồ VLap) với diện tích 637,6m
2
(loại đất trồng cây hàng năm khác), tại thôn Thôn
C, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định để trả lại quyền sử dụng đất đối với thửa đất này cho
vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Huỳnh Thị L.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về phần án phí dân sự sơ thẩm, chi
phí tố tụng khác, quyền nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 27 tháng 5 năm 2024, ông Trần Văn Ph kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ
thẩm số 14/2024/DS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Phù
Cát, tỉnh Bình Định.
Ông Trần Văn Ph yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết sửa Bản án
sơ thẩm số 14/2024/DS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Toà án nhân dân huyện Phù
Cát, tỉnh Bình Định. Về việc Đối với giấy mướn đất ông L viết không có ngày tháng
năm. Do đó, nếu cấp lại đối với thửa đất đang tranh chấp thì ông L phải sang tên cho
5
ông Trần Văn Ph đứng tên chủ đất (vì bà Công đã lấy thêm tiền sang nhượng thửa đất
là 1.000.000 đồng); Ông H đã làm sổ đỏ đứng tên thửa đất mà ông Trần Văn Ph đã
mua và trồng cây là sai.
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại cấp phúc thẩm, người tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn Ph và căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ
luật tố tụng dân sự năm 2015. Sửa bản án dân sự sơ thẩm, tại phiên tòa phúc thẩm vợ
chồng ông Nguyễn Văn H, bà Huỳnh Thị L tự nguyện xin nhận 400 cây bạch đàn do
ông Trần Văn Ph trồng và chấp nhận hỗ trợ thối lại15.600.000 đồng theo biên bản
định giá ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát cho ông Trần Văn Ph .
Ông Trần Văn Ph phải giao 400 cây bạch đàn cho vợ chồng ông Nguyễn Văn H và bà
Huỳnh Thị L quản lý sử dụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX phúc thẩm nhận định:
[1] Xét kháng cáo của bị đơn ông Trần Văn Ph HĐXX phúc thẩm thấy rằng:
Năm 1995, hộ gia đình bà Nguyễn Thị C được UBND huyện Phù Cát giao
quyền sử dụng thửa đất màu số thửa 40, tờ bản đồ số 10 (theo bản đồ năm 1994) với
diện tích theo giấy chứng nhận 549m
2
tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số phát
hành: B863654, số vào sổ:.../QSDĐ ngày 26/5/1995, vị trí thửa đất: Tại thôn Thôn C,
xã N, huyện P, tỉnh Bình Định; tờ bản đồ số 7, có diện tích thực tế 637,6m
2
. Năm 2006
ông Bùi Xuân Lành (con bà Công) có viết giấy cho ông Trần Văn Ph ở thôn Thôn C,
xã N, huyện P thửa đất trên, thời hạn thuê: Hết thời hạn Nhà nước giao quyền (hết
ngày 31/12/2014); giá thuê là 400.000 đồng cho cả thời hạn thuê. Nội dung thuê đất đã
được thể hiện trong “Giấy cho thuê mướn” do ông Lành viết, ông Ph cung cấp cho Tòa
(BL:46). Mặc dù trong “Giấy cho mướn đất” không ghi ngày tháng năm cho mướn.
Nhưng qua lời khai của ông L trình bày giá ông cho thuê mỗi năm 50.000 đồng nhân 8
năm thuê bằng 400.000 đồng, ông L xác định năm ông viết giấy cho ông Ph thuê đất
là năm 2006. Sau khi thuê đất, vợ chồng ông Ph , bà Bùi Thị Kim Li trồng bạch đàn
thu hoạch nhiều lứa. Hết thời hạn Nhà nước giao quyền, hộ bà Công đã được Nhà
nước cho gia hạn sử dụng đất đến năm 2064. Ngày 14/6/2018, hộ bà C lập hợp đồng
chuyển nhượng QSDĐ cho vợ chồng ông Nguyễn Văn H , bà Huỳnh Thị L theo đúng
thủ tục Nhà nước quy định. Vợ chồng ông H , bà đã được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Bình Định cấp GCNQSDĐ số phát hành CN485569, số vào sổ CS07673
cấp ngày 02/8/2018, có số thửa số 70, tờ bản đồ số 7, diện tích theo GCN:637,6m
2
,
6
mục đích sử dụng là đất trồng cây hàng năm khác, thời hạn sử dụng ngày 31/12/2064.
Theo kết quả xem xét, thửa đất này có diện tích thực tế 637,6m
2
trùng với diện tích
được cấp GCN cho vợ chồng ông H . Trước khi chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng
ông H , bà L , bà C đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng ông Ph , bà Li thu dọn bạch đàn trả
lại đất cho bà C vì đã hết thời hạn thuê đất nhưng ông Ph , bà Li vẫn không thực hiện.
Sau khi nhận chuyển nhượng, vợ chồng ông H , bà L cũng đã nhiều lần yêu cầu ông
Ph , bà Li thu dọn bạch đàn, trả đất cho vợ chồng ông H nhưng ông Ph , bà Li vẫn
không thực hiện. Nên ông Nguyễn Văn H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc
ông Ph , bà Li phải thu dọn, chặt toàn bộ số cây bạch đàn đang trồng trên thửa nói trên
để trả lại quyền sử dụng đất cho vợ chồng ông Nguyễn Văn H , bà Huỳnh Thị L .
Xét các yêu cầu khởi kiện của ông H là hoàn toàn có căn cứ, phù hợp theo quy
định tại khoản 7 Điều 166 Luật đất đai năm 2013 và các Điều: 163, 164, 166 của Bộ
luật dân sự năm 2015 nên được Hội đồng xét xử chấp nhận, bởi lẽ: Thửa đất nói trên
ông Ph chỉ thuê sử dụng đến hết thời hạn năm 2014, hết năm 2014 ông Ph , bà Li phải
có nghĩa vụ trả lại đất cho chủ sử dụng hợp pháp là hộ bà C vì hộ bà Công đã được
Nhà nước tiếp tục cho gia hạn quyền sử dụng đất đến năm 2064, ông Ph , bà Li không
thực hiện nghĩa vụ trả đất, vẫn tiếp tục canh tác khi đã hết thời hạn thuê đất là xâm
phạm đến quyền sử dụng của hộ bà C . Năm 2018 hộ bà Công đã chuyển nhượng thửa
đất cho vợ chồng ông H , bà L . Ông H , bà L đã được Nhà nước cấp GCNQSDĐ nên
chủ sử dụng thửa đất hợp pháp từ năm 2018 đến nay là vợ chồng ông H , bà L . Ông
Ph , bà Li không thu dọn bạch đàn trả lại thửa đất cho vợ chồng ông Hường, bà Loan
sử dụng là hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của
vợ chồng ông H , bà L . Vì vậy, căn cứ quy định tại các Điều 163, 164, 166 Bộ luật
dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại đất của
vợ chồng ông H . Tại phiên tòa phúc thẩm vợ chồng ông H , bà L tự nguyện chấp
nhận, xin nhận 400 cây bạch đàn do ông Trần Văn Ph trồng và chấp nhận hỗ trợ thối
lại 15.600.000 đồng cho ông Trần Văn Ph , bà Bùi Thị Kim Li theo biên bản định giá
ngày 08/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Phù Cát và buộc ông Trần Văn Ph , bà Bùi
Thị Kim Li phải trả lại thửa đất số 70, tờ bản đồ số 7, diện tích 637,6m
2
đất trồng cây
hàng năm khác cùng 400 cây bạch đàn do ông Trần Văn Phước, bà Bùi Thị Kim Liên
trồng trên thửa đất tại thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định cho vợ chồng ông H , bà
L quản lý sử dụng. Nên Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm về
phần này
Ông Trần Văn Ph cho rằng hộ bà Công đã bán thửa đất nói trên cho ông Ph
không phải cho thuê nhưng ông không đưa ra được tài liệu chứng cứ nào để chứng
minh cho việc hộ bà C bán, đã chuyển nhượng thửa đất cho ông Ph , nên yêu cầu này
của ông Ph không được Hội đồng xét xử chấp nhận là đúng. Ông Ph cho rằng bà C
có nhận thêm của ông Ph 1.000.000 đồng, bà C không thừa nhận điều này, cũng
không có chứng cứ nào chứng minh việc bà C có nhận của ông Ph thêm 1.000.000
đồng nên lời nại của ông Ph không được Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận là đúng
7
quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Trần Văn Phư không đưa ra được các tài liệu,
chứng cứ nào khác để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, Hội đồng
xét xử phúc thẩm xét không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Văn Ph .
Các phần còn lại của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
nên được giữ nguyên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
[2] Về án phí dân sự phúc thẩm:
[2.1] Về án phí dân sự phúc thẩm: Theo quy định tại Điều 148 của Bộ luật tố
tụng Dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì ông Trần Văn Ph phải
chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ 300.000 đồng tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0006846 ngày 27/5/2024 của Chi cục
Thi hành án dân sự huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
[3] Ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu đề nghị HĐXX phúc thẩm không chấp
nhận kháng cáo của ông Trần Văn Ph , sửa bản án dân sự sơ thẩm là phù hợp với nhận
định của HĐXX nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ các Điều 147, Điều 148, Điều 157, Điều 165 khoản 2 Điều 308, Điều
309 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 163, Điều 164, Điều 166 Bộ luật dân
sự năm 2015, khoản 7 Điều 166 Luật đất đai năm 2013, khoản 1, khoản 2 Điều 26,
khoản 1 Điều 29 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản
lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn Ph . Sửa một phần Bản án dân
sự sơ thẩm số: 14/2024/DS-ST ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện
Phù Cát, tỉnh Bình Định về phần vợ chồng ông Nguyễn Văn H , bà Huỳnh Thị L xin
nhận 400 cây bạch đàn do ông Trần Văn Phước trồng trên thửa đất và vợ chồng ông
Nguyễn Văn H , bà Huỳnh Thị L chấp nhận hỗ trợ thối lại số tiền 15.600.000 đồng
cho ông Trần Văn Ph , bà Bùi Thị Kim Li .
2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn
Hường.
8
Buộc vợ chồng ông Trần Văn Ph và bà Bùi Thị Kim Li phải có nghĩa vụ trả
quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 70, tờ bản đồ số 7 (theo bản đồ VLap) với diện
tích 637,6m
2
(loại đất trồng cây hàng năm khác) cùng 400 cây bạch đàn do ông Trần
Văn Phước, bà Bùi Thị Kim Liên trồng trên thửa đất, tại thôn Thôn C, xã N, huyện P,
tỉnh Bình Định cho vợ chồng ông Nguyễn Văn H , bà Huỳnh Thị L quản lý sở hữu sử
dụng.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn H, bà Huỳnh Thị L phải có trách nhiệm hỗ trợ
thối lại giá trị 400 cây bạch đàn cho ông Trần Văn Ph , bà Bùi Thị Kim Li số tiền
15.600.000 đồng vì do ông Trần Văn Ph và bà Bùi Thị Kim Li trồng trên thửa đất số
70, tờ bản đồ số 7 (theo bản đồ VLap) với diện tích 637,6m
2
(loại đất trồng cây hàng
năm khác), tại thôn Thôn C, xã N, huyện P, tỉnh Bình Định .
3. Về án phí và chi phí tố tụng khác:
3.1 Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Trần Văn Phước phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn H 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lại thu
số 0009108 ngày 23/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phù Cát, tỉnh Bình
Định.
3.2 Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài sản sơ thẩm là
12.000.000 đồng
- Buộc ông Trần Văn Ph phải chịu 2.400.000 đồng
- Buộc ông Nguyễn Văn H phải chịu 2.400.000 đồng
- Buộc bà Huỳnh Thị L phải chịu 2.400.000 đồng
- Buộc bà Nguyễn Thị C phải chịu 2.400.000 đồng
- Buộc ông Bùi Xuân L phải chịu 2.400.000 đồng.
Số tiền 12.000.000 đồng này ông Nguyễn Văn H tạm ứng đã chi xong. Buộc
ông Ph , bà L , bà C , ông L có nghĩa vụ hoàn trả cho ông H mỗi người 2.400.000
đồng.
3.3 Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Trần Văn Ph phải chịu 300.000 đồng án
phí dân sự phúc thẩm nhưng được trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã
nộp theo biên lai thu số 0006846 ngày 27/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định
9
Các phần còn lại của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
nên được giữ nguyên có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
4. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:
4.1 Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp
cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có
đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong) bên phải thi hành án còn phải
chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều
357,khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
4.2 Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế
thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi
hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Bình Định; THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND huyện Phù Cát;
- CCTHADS huyện Phù Cát;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, Tòa dân sự.
Nguyễn Thanh Tuấn
10
11
Tải về
Bản án số 208/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 208/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 22/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 20/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 15/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 14/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 12/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm