Bản án số 598/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 598/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 598/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 598/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 598/2024/DS-PT ngày 29/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Dương |
Số hiệu: | 598/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp về thừa kế tài sản N-T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH DƯƠNG
Bản án số: 598/2024/DS-PT
Ngày 29-11-2024
V/v tranh chấp thừa kế tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đinh Thị Mộng Tuyết.
Ông Nguyễn Trung Dũng;
Bà Nguyễn Thị Duyên Hằng.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Hồng Xuân - Thư ký Tòa án nhân
dân tỉnh Bình Dương.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên
tòa: Ông Lê Trung Kiên – Kiểm sát viên.
Trong các ngày 28 và 29 tháng 11 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số
530/2024/TLPT-DS ngày 29 tháng 10 năm 2024 về việc “Tranh chấp về thừa kế
tài sản”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 138/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 448/2024/QĐ-PT ngày
06 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1954; địa chỉ: khu phố C,
phường M, thành phố B, tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên hệ: khu phố B, thị trấn D,
huyện D, tỉnh Bình Dương, có mặt.
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1999; địa chỉ: tổ G, ấp P, xã
P, thành phố B, tỉnh Bình Dương, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Quản Thị B, sinh năm 1937; địa chỉ: khu phố P, phường H, thành
phố B, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Thành C, sinh năm 1989; địa chỉ: ấp B, xã T, huyện D,
tỉnh Bình Dương; địa chỉ liên hệ: tổ G, ấp P, xã P, thành phố B, tỉnh Bình
Dương, có mặt.
2
3. Ông Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1972; địa chỉ: khu phố P, phường H,
thành phố B, tỉnh Bình Dương, có mặt.
4. Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương; địa chỉ: khu phố B, phường M, thành
phố B, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Duy L – Chức vụ: Trưởng
Văn phòng, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Võ Bạch N1, sinh năm 1963; địa chỉ: tổ F, khu
phố D, thành phố B, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
- Người kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn ông Nguyễn Văn N trình bày:
Cụ Nguyễn Văn S, sinh 1916, đã chết năm 1975, không có giấy chứng tử.
Cụ Võ Thị M, sinh năm 1920, đã chết năm 1968, không có giấy chứng tử.
Quá trình chung sống cùng nhau, cụ S và cụ M có các người con chung
gồm:
+ Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1944, đã chết vào năm 2024, có giấy chứng
tử. Bà H có quan hệ nhân thân như sau: bà H có con nuôi là bà Nguyễn Thị K,
sinh năm 1979, đã chết năm 2008, có giấy chứng tử. Bà K có chồng là ông
Nguyễn Ngọc D, đã chết năm 2005, có giấy chứng tử. Ông D và bà K có một
con chung là bà Nguyễn Thị Ngọc T, sinh năm 1999.
+ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1954.
Sau khi cụ M chết, cụ S chung sống cùng cụ B và có một người con chung
là ông Nguyễn Tấn Đ, sinh năm 1972.
Trước năm 1975, cụ S và cụ M có tạo lập các thửa đất gồm: thửa đất số
220, 253, tờ bản đồ số 27; thửa đất số 694, 786, 787, tờ bản đồ số 23; thửa đất số
116, 151, 152, 195 (sau này được tách thành thửa đất số 1775 và 1774), tờ bản
đồ số 22. Các thửa đất trên đều tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh Bình Dương.
Các thửa đất này từ đâu mà cụ S và cụ M có được thì ông N không rõ. Quá trình
quản lý, sử dụng các thửa đất, cụ S và cụ M không kê khai để đứng tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai cụ cũng không có bất cứ giấy tờ gì về quyền
sở hữu, quản lý, sử dụng các thửa đất. Sau khi cụ S, cụ M chết thì hai cụ để lại
các thửa đất cho ông N, ông Đ, bà H quản lý, sử dụng. Vì bà H sống chung với
cụ S và cụ M nên năm 1999, các anh chị em trong gia đình thống nhất thỏa
thuận bằng lời nói để cho bà H tạm thời quản lý, sử dụng, đứng tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất và chịu trách nhiệm thờ cúng
cụ S, cụ M. Vì vậy, ngày 20/02/1999, bà H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ 01394 QSDĐ/1474/QĐ-UB đối với các thửa đất trên. Sau
này, các thửa đất số 220, 253, tờ bản đồ số 27; thửa đất số 694, 786, 787, tờ bản
đồ số 23; thửa đất số 116, 151, 152, 195, tờ bản đồ số 22 thì một phần bà H tặng
3
cho ông N, một phần bà H chuyển nhượng cho người khác dưới sự đồng ý của
ông N, ông Đ. Cho nên, ông N không tranh chấp đối với các thửa đất này.
Đối với thửa đất số 195, anh chị em thống nhất để cho bà H tạm quản lý,
sử dụng. Gắn liền với đất có một căn nhà cấp 4 có kết cấu tường gạch xây tô,
nền xi măng, cửa đi và cửa sổ bằng gỗ, cột kèo mái ngói có diện tích 144,8m
2
.
Căn nhà này do ông N bỏ tiền (khoảng vài triệu đồng) và mang vật tư đến để
xây dựng vào năm 1983. Năm 2000, ông N cũng bỏ tiền (khoảng hơn
10.000.000 đồng) để xây dựng hàng rào phía Đông của thửa đất số 1775. Do
thời gian trải qua đã lâu nên ông N không còn lưu giữ các giấy tờ xây dựng công
trình trên đất. Các cây ăn trái xung quanh đất do bà H trồng nhưng ông N không
tranh chấp. Khoảng năm 2020, bà T có xây một phần nhà cấp 4 gắn liền với căn
nhà do ông N xây. Khoảng năm 2023, bà T có sửa chữa lại phần nhà mà bà T đã
xây. Bà K, bà T sống cùng bà H tại thửa đất số 1775 từ nhỏ cho đến lớn. Ông N,
ông Đ không sinh sống tại thửa đất này.
Khoảng năm 2021, ông Đ, ông N, bà H thống nhất tách thửa đất 195
thành hai thửa đất để thuận tiện cho việc phân chia thừa kế. Cho nên, việc bà H
làm thủ tục phân chia thừa kế để tách thửa đất số 195, ông N có biết việc này.
Năm 2021, bà H được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 1775 và bà T được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với thửa số 1774. Năm 2022, bà T chuyển nhượng thửa đất số 1774 để có
tiền trị bệnh cho bà H dưới sự đồng ý của ông N, ông Đ. Cũng trong năm 2021,
ông N, ông Đ, bà H thỏa thuận bằng lời nói là bà H làm thủ tục tách thửa đất số
1775 cho ông N, ông Đ, bà T, bà H mỗi người khoảng 10m ngang, dài khoảng
20m; riêng đất thổ cư thì ông N, ông Đ chung 100m
2
; bà T, bà H chung 100m
2
.
Tuy nhiên, thời điểm đó, Nhà nước không cho tách thửa nên việc tách thửa tạm
ngưng cho đến nay.
Khoảng tháng 3/2024, ông N biết được thông tin bà T nhận chuyển
nhượng thửa đất số 1775 cùng tài sản gắn liền với đất từ bà H. Bà H bị mù, điếc,
không đi lại được từ khoảng hơn 10 năm nay, hàng tháng bà H có nhận tiền cho
người khuyết tật tại Ủy ban nhân dân xã P thì làm sao có việc bà H tự nguyện ký
kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà T. Bà T đã lợi dụng lúc
bà H bị hạn chế về sức khỏe, không minh mẫn để lừa dối bà H ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà T.
Vì vậy, ông N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
+ Chia thừa kế bằng hiện vật đối với thửa đất số 1775 cho các đồng thừa
kế theo quy định pháp luật.
+ Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được ký giữa bà T
với bà H, đã được Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương công chứng số 10992, quyển
số 10/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 07/10/2022.
- Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T trình bày:
4
Bà T là cháu ngoại của bà H. Bà H sinh năm 1944, đã chết vào năm 2024,
có giấy chứng tử. Bà T thống nhất với mối quan hệ nhân thân, huyết thống của
bà H do ông N trình bày.
Lúc còn sống, bà H có quản lý, sử dụng thửa đất số 195, tờ bản đồ số 22
tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh Bình Dương. Nguồn gốc đất do đâu mà bà H
có thì bà T không rõ. Năm 1999, bà H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất theo quy định đối với thửa đất này. Bà H sử dụng đất để xây dựng một căn
nhà cấp 4 có kết cấu tường gạch xây tô, nền xi măng, cửa đi và cửa sổ bằng gỗ,
cột kèo mái ngói có diện tích 144,8m
2
để ở và xây dựng các công trình phụ khác
gắn liền với đất. Xung quanh đất, bà H trồng cây ăn trái.
Năm 2021, bà H và bà T thỏa thuận phân chia thừa kế thửa đất số 195 do
bà K chết vào năm 2008 mà chưa phân chia. Theo thủ tục phân chia thừa kế thì
thửa đất số 195 được tách thành thửa đất số 1775 do bà H đứng tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và thửa đất số 1774 do bà T đứng tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Ông N có biết việc phân chia thừa kế này. Đồng
thời, ông N và ông Đ đều đồng ý cho bà T chuyển nhượng thửa đất số 1774 để
có tiền trị bệnh cho bà H. Bà T sử dụng một phần số tiền chuyển nhượng đất để
trị bệnh cho bà H, phần còn lại bà T sử dụng để mua lại thửa đất số 1775.
Năm 2022, bà H chuyển nhượng thửa đất này cho bà T; giá chuyển
nhượng là 200.000.000 đồng. Bà H chuyển nhượng cả đất và tài sản gắn liền với
đất. Tại thời điểm chuyển nhượng, bà H còn minh mẫn, mắt bà H một bên còn
nhìn thấy rõ và một bên không nhìn thấy rõ. Cho nên, hàng tháng, bà H có nhận
số tiền 400.000 đồng từ Ủy ban nhân dân xã P đối với người khuyết tật là mù
nhẹ. Thời điểm chuyển nhượng, bà T và bà H không thông báo cho ông N, ông
Đ biết vì thửa đất số 1775 và tài sản gắn liền với đất là tài sản riêng của bà H,
không phải của chung với ông N, ông Đ nên bà T, bà H không có nghĩa vụ phải
thông báo cho ông N, ông Đ biết. Bà T trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất số
1775 và tài sản gắn liền với đất từ sau khi nhận chuyển nhượng cho đến nay.
Trước khi bà H chết, số tiền mà bà H dành dụm từ trước cho đến nay (bao
gồm cả tiền bà H chuyển nhượng đất cho bà T) được sử dụng hết để trị bệnh.
Năm 2023, bà T cùng ông C (chồng bà T) xây thêm một phần nhà cấp 4
gắn liền với căn nhà cấp 4 của bà H với số tiền là 36.000.000 đồng. Ông N cho
rằng căn nhà cấp 4 có diện tích 144,8m
2
cùng hàng rào phía Đông của thửa đất
số 1775 là do ông N bỏ tiền và mang vật tư đến để xây là không đúng.
Bà K và bà T sống cùng bà H từ nhỏ cho đến lớn tại thửa đất số 1775.
Ông N, ông Đ không sinh sống tại thửa đất này từ trước cho đến nay. Ông N cho
rằng thửa đất số 1775 là di sản do cụ S và cụ M để lại nhưng bà T chưa từng
nhìn thấy văn bản hay giấy tờ gì thể hiện cụ S và cụ M được quyền quản lý, sử
dụng thửa đất này. Do đó, đối với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông N thì bà T
không đồng ý.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Tấn Đ trình bày:
5
Ông Đ thống nhất với mối quan hệ nhân thân huyết thống của bà H do
ông N trình bày.
Lúc còn sống, bà H có quản lý, sử dụng thửa đất số 1775, tờ bản đồ số 22
tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh Bình Dương. Nguồn gốc do cụ S và cụ M tạo
lập (do mua bán, khai phá hay nhận thừa kế thì ông Đ không rõ). Sau khi hai cụ
chết đã để lại chung cho ông N, ông Đ, bà H quản lý, sử dụng thửa đất số 1775.
Vì bà H sống chung với cụ S, cụ M nên các anh chị em trong gia đình thống
nhất thỏa thuận bằng lời nói để cho bà H tạm thời quản lý, sử dụng thửa đất số
1775 và bà H chịu trách nhiệm thờ cúng cụ S, cụ M. Gắn liền với đất có một căn
nhà cấp 4 có kết cấu tường gạch xây tô, nền xi măng, cửa đi và cửa sổ bằng gỗ,
cột kèo mái ngói có diện tích 144,8m
2
do ông N bỏ tiền và cung cấp vật tư để
xây cho bà H, bà K ở vào năm 1983. Bà H chỉ là người giám sát khi xây dựng,
chứ không đóng góp tiền bạc, vật tư gì. Gắn liền phía Đông của căn nhà do ông
N xây có một phần nhà do bà T xây (xây vào năm nào thì ông Đ không rõ).
Hàng rào xung quanh đất do ai xây thì ông Đ không rõ. Các cây ăn trái do bà H
trồng nhưng ông Đ không tranh chấp.
Bà K và bà T sống chung cùng bà H tại thửa đất số 1775 từ nhỏ cho đến
lớn. Từ trước cho đến nay, ông Đ không sinh sống tại thửa đất số 1775 nên ông
Đ không có công sức đóng góp gì trên thửa đất này.
Việc hộ bà H đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ
01394 QSDĐ/1474/QĐ-UB ngày 20/12/1999, ông Đ không biết việc này, còn
ông N có biết hay không thì ông Đ không rõ. Ông N và bà H có thỏa thuận việc
bà H đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2020, năm 2021 hay
không thì ông Đ không rõ vì ông Đ không có tham gia.
Khoảng năm 2020, ông Đ, ông N, bà H thỏa thuận bằng lời nói là phân
chia thửa đất số 1775. Cụ thể, bà T, bà H, ông Đ mỗi người được một phần đất
có kích thước ngang 10m, phần còn lại sẽ chia cho ông N. Các bên có thỏa thuận
phân chia đất thổ cư hay không thì ông Đ không nhớ rõ. Do bà T không đồng ý
với việc phân chia trên nên thỏa thuận phân chia nêu trên không thực hiện được.
Việc ông N cho rằng không thể làm thủ tục tách thửa mà dẫn đến kéo dài việc
phân chia thừa kế thì ông Đ không rõ việc này.
Bà H bị mù, điếc nhẹ cách đây khoảng 10 năm, tức bà H vẫn nhìn thấy
nhưng không rõ, tinh thần vẫn còn minh mẫn. Khoảng năm 2022, bà H bị mù
hẳn, không đi lại được, đầu óc không còn minh mẫn. Đối với việc bà T chuyển
nhượng thửa đất số 1774 cho người khác, ông Đ có biết việc này và không tranh
chấp gì vì bà T chuyển nhượng đất là để có tiền trị bệnh cho bà H.
Việc bà H ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để chuyển
nhượng cho bà T thửa đất số 1775 và bà T đứng tên trên giấy chứng nhận đối
với thửa đất số 1775 thì ông Đ không biết.
Nay, đối với yêu cầu khởi kiện của ông N, ông Đ không có ý kiến gì.
Trong trường hợp được chia theo quy định pháp luật, ông Đ xin nhận phần được
chia.
6
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành C trình bày:
Ông C là chồng của bà T và đang sinh sống cùng bà T tại thửa đất số
1775. Thửa đất trên và tài sản gắn liền với đất có nguồn gốc của ai thì ông C
không rõ.
Năm 2023, ông C và bà T có xây một phần nhà cấp 4 gắn liền nhà cấp 4
của bà H với số tiền là 36.000.000 đồng. Đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân của ông C và bà T. Ngoài ra, ông C không có công sức đóng góp nào khác
trên thửa đất này.
Nay, đối với yêu cầu khởi kiện của ông N, ông C không có ý kiến gì vì
đây là tranh chấp riêng của bà T và gia đình bên bà T; đề nghị Tòa án giải quyết
vụ án theo quy định pháp luật. Ngoài ra, ông C không có yêu cầu, ý kiến gì
khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ Quản Thị B trình bày:
Cụ B là mẹ ruột của ông Đ. Cụ B và cụ S chung sống như vợ chồng từ
trước năm 1972 (sau khi cụ M chết). Quá trình chung sống cùng nhau, cụ B và
cụ S không sinh sống trên thửa đất số 1775 và cho đến nay, cụ B cũng không
sinh sống trên thửa đất này. Thửa đất số 1775 cũng không phải là tài sản chung
của cụ B và cụ S. Cụ B cũng không có công sức đóng góp trên thửa đất này.
Nay, đối với yêu cầu khởi kiện của ông N, cụ B không có ý kiến gì, đây là
tranh chấp riêng của các bên. Ngoài ra, cụ B không có ý kiến hay yêu cầu gì
khác.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương
trình bày:
Vào ngày 07/10/2022, Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương nhận được yêu
cầu công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bà T. Theo đó,
bà H (bên chuyển nhượng) chuyển nhượng cho bà T (bên nhận chuyển nhượng)
thửa đất số 1775, tờ bản đồ số 22 với diện tích 1.121m
2
, địa chỉ: xã P, thành phố
B, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số DC522989 (số vào sổ CS12016) do Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 23/12/2021. Công chứng viên tiếp nhận
hồ sơ là ông Nguyễn Duy L. Những giấy tờ các bên cung cấp bao gồm: căn cước
công dân, sổ hộ khẩu của bà H và bà T; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DC522989 (số vào sổ:
CS12016) do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp ngày 23/12/2021 mang
tên bà H; đơn xác nhận tình trạng bất động sản; Văn bản thỏa thuận phân chia di
sản thừa kế số 07794, quyển số 07/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 14/7/2021;
Văn bản sửa đổi, bổ sung Văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế số 09541,
quyển số 11/2021 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 17/11/2021; giấy căn cước công
dân, sổ hộ khẩu của bà Nguyễn Thị T1.
Sau khi đối chiếu, kiểm tra những giấy tờ nêu trên, xét thấy đầy đủ và hợp
lệ theo quy định pháp luật, Công chứng viên Nguyễn Duy L đã tiếp nhận hồ sơ,
7
đưa cho chuyên viên soạn thảo hợp đồng và hướng dẫn những người tham gia
giao dịch ký văn bản theo đúng quy định của pháp luật. Tại thời điểm giao kết,
những người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự phù hợp theo quy
định pháp luật, tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện và đồng ý với những nội
dung ghi trong hợp đồng, nội dung chuyển nhượng không vi phạm pháp luật. Vì
vậy, Công chứng viên Nguyễn Duy L đã chứng nhận Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất số 10922, quyển số 10/2022 TP/CC-SCC/HĐGD ngày
07/10/2022.
Theo Công văn số 149/TA-DS ngày 12/6/2024 về việc cung cấp thông tin
và sao lục hồ sơ của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương yêu cầu:
“Tại thời điểm công chứng các bên có tự nguyện hay không, bà H có minh mẫn
hay không, bà H có bị hạn chế về thể chất (bệnh tật, mù mắt, liệt) hay không. Lý
do tại sao bà H không ký, ghi tên vào hợp đồng chuyển nhượng mà phải lăn tay
vào”. Văn phòng C1 nhận thấy các yêu cầu trên đã được thể hiện ở phần lời
chứng của Công chứng viên.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông N thì Văn phòng C1 không có ý kiến gì
vì đây là quyền công dân.
- Người làm chứng ông Võ Bạch N1 trình bày.
Năm 2022, bà H nhờ ông N1 liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để làm
thủ tục tách thửa đất số 1775, tờ bản đồ số 22 tọa lạc tại xã P, thành phố B, tỉnh
Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản gắn liền với đất số vào sổ CS12016 ngày 23/12/2021. Ngày 13/4/2022,
bà H và ông N1 làm giấy ủy quyền với nội dung “Trích lục, đo đạc địa chính
tặng cho quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1775 thuộc tờ bản đồ số 22 được
sở tài nguyên và môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày
23/4/2021”. Giấy ủy quyền được Ủy ban nhân dân xã P chứng thực theo quy
định.
Ông N1 nghe bà H, ông N nói lại là làm thủ tục này để tách thửa đất số
1775 tặng cho ông N, ông Đ, bà T.
Quá trình làm thủ tục, ông N1 được nhân viên Chi nhánh Văn phòng
Đăng ký đất đai thành phố B và công chứng địa chính Ủy ban nhân dân xã P cho
biết thửa đất số 1775 tiếp giáp với tuyến đường không đủ điều kiện để tách thửa.
Do vậy, ông N1 trả lời với bà H là ông không làm thủ tục được do không đủ
điều kiện. Khi nào đất đủ điều kiện tách thửa thì ông N1 sẽ tiếp tục làm thủ tục
cho bà H.
Đồng thời, ông N1 cũng có nhờ nhân viên Chi nhánh Văn phòng Đăng ký
đất đai thành phố B giùm thửa đất số 1775 trên bản vẽ để xem xét phần diện tích
mỗi người được chia là bao nhiêu. Ông N1 trình bày ý kiến nêu trên để chứng
minh ý chí của bà H khi còn sống là muốn làm thủ tục để chia đất cho ông N,
ông Đ, bà T.
Do ông N1 có mối quan hệ là bà con với ông N, bà H nên ông N1 biết
việc cụ S, cụ M để lại chung cho bà H, ông N, ông Đ thửa đất số 1775. Ông N,
8
ông Đ, bà H thỏa thuận bằng lời nói là tạm thời cho bà H đứng tên trên giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và quản lý, sử dụng đối với thửa đất số 1775.
Khoảng năm 1983, ông N cất nhà trên đất cho bà H và bà K ở. Hàng rào phía
trước nhà cũng do ông N xây.
Vì vậy, việc ông N khởi kiện yêu cầu chia thừa kế thửa đất số 1775 cho
ông N, ông Đ, bà H, bà T là có căn cứ.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm 138/2024/DS-ST ngày 30 tháng 8 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương đã quyết định: Không chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N đối với bị
đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T về việc “Tranh chấp về thừa kế tài sản”.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền
kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/9/2024, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N
có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N vẫn giữ yêu cầu
kháng cáo và yêu cầu khởi kiện. Bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc T không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Các đương sự không tự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết vụ án.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã thực
hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: nguyên đơn kháng cáo nhưng không đưa ra được chứng cứ
chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng
xét xử không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, lời trình bày của các
đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị B1 và Văn
phòng C1, tỉnh Bình Dương có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự trên theo quy định tại Điều
296 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Xét kháng cáo của nguyên đơn ông Nguyễn Văn N, Hội đồng xét xử
nhận thấy:
[2.1] Căn cứ vào hồ sơ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ
01394 QSSĐ/1474/QĐ-UB ngày 20/12/1999 cấp cho hộ bà Nguyễn Thị H thể
hiện: ngày 22/6/1998, bà Võ Thi H1 có đơn đăng ký quyền sử dụng đất với diện
tích 6.486m
2
, bao gồm các thửa đất số 220, 253, tờ bản đồ 27; thửa đất số 694,
tờ bản đồ 23; thửa đất số 784, 787, 181, 182, 195, tờ bản đồ 11; thửa đất số 116,
9
tờ bản đồ 22, nguồn gốc đất “ông bà để lại canh tác năm 1975” (bút lục 225) và
có “đơn xin ủy quyền ruộng đất” ngày 20/5/98 của bà Nguyễn Thị M1 (bút lục
219) thể hiện nội dung “nguyên tôi có canh tác tại cánh đồng ngọn rạch mương
sao khoảng 19 xào ruộng của bà để lại nhưng chỉ canh tác có 7 xào mà
thôi….hiện nay tôi đã già yếu không thể làm nổi bỏ lâu hơn 5 năm rồi, tôi làm
đơn này trình lên Ủy ban nhân dân xã P thông qua ban thuế nông nghiệp vui
lòng cho cháu tôi là Nguyễn Thị H làm số đất này”. Đến ngày 20/12/1999 hộ bà
Nguyễn Thị H được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích
đăng ký. Theo hồ sơ thể hiện, hộ bà H tại thời điểm cấp đất gồm bà Nguyễn Thị
H và bà Nguyễn Thị Kiều .
[2.2] Theo quy định tại mục 1 Phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-
HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia
đình quy định: “Quyền sử dụng đất được xác định là di sản khi quyền sử dụng
đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, nếu không có các loại giấy tờ
trên thì trên đất có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác”. Đối chiếu quy định viện
dẫn trên với hồ sơ cấp đất cho bà H, thành phần hồ sơ cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cấp cho bà H không có bất kỳ tài liệu, giấy tờ nào khác xác
định nguồn gốc đất của cụ S, cụ M hay giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất
giữa cụ S, cụ M. Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 04/6/2024 trên
thửa đất đang tranh chấp không có bất kỳ tài sản, cây trồng nào của cụ S, cụ M.
Do đó, ông N cho rằng toàn bộ quyền sử dụng đất mà bà H được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 01394 QSSĐ/1474/QĐ-UB ngày
20/12/1999 là di sản của cụ S và cụ M là không có căn cứ, quyền sử dụng đất là
của gia đình bà H được bà M1 cho, không phải là di sản của cụ S và cụ M.
[3] Ngoài ra, theo hồ sơ cập nhật biến động của quyền sử dụng đất theo
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 01394 QSSĐ/1474/QĐ-UB ngày
20/12/1999 thể hiện:
Ngày 01/12/2010, hộ bà H tặng cho bà P diện tích 986m
2
thuộc thửa đất
số 220, 253. Đến ngày 07/10/2020, bà H có đơn đề nghị cấp lại, cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 195, tờ bản đồ số 22. Ngày
01/12/2020, hộ bà H được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
vào sổ CS10638 đối với thửa đất số 195.
Ngày 01/12/2021, thửa đất số 195 được tách thành 02 thửa đất là thửa đất
số 1775 và số 1774 để phân chia thừa kế. Ngày 23/12/2021, bà Nguyễn Thị H
được Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay là thành phố) Bến Cát thừa ủy quyền Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào số CS12016 đối với
thửa đất số 1775, tờ bản đồ số 22 với diện tích 1.121m
2
; bà Nguyễn Thị Ngọc T
được Chi nhánh Văn phòng Đ1 (nay là thành phố) Bến Cát thừa ủy quyền Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
10
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số vào sổ CS12017 đối với
thửa đất số 1773, tờ bản đồ số 22 với diện tích 352,9m
2
. Thửa đất số 1775, 1774
được tách từ thửa đất số 195, nguồn gốc nhận quyền sử dụng đất theo Văn bản
thỏa thuận phân chia di sản thừa kế được Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương công
chứng ngày 14/7/2021, số công chứng 07794, quyển số 07/2021 TP/CC-
SCCC/HĐGD và Văn bản sửa đổi bổ sung Văn bản thỏa thuận phân chia di sản
thừa kế được Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương công chứng ngày 17/11/2021, số
công chứng 09541, quyển số 11/2021 TP/CC-SCCC/HĐGD.
Đến ngày 07/10/2022, bà H ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất thuộc thửa đất số 1775 cho bà Nguyễn Thị Ngọc T. Ngày 28/10/2022, Chi
nhánh Văn phòng Đ1 (nay là thành phố) Bến Cát cập nhật biến động trang 03
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn
liền với đất số vào sổ CS12016 đối với thửa đất số 1775, tờ bản đồ số 22 cấp
ngày 23/12/2021 chuyển nhượng cho bà Nguyễn Thị Ngọc T.
[4] Ông N cho rằng, quyền sử dụng đất trên là di sản của cụ S và cụ M, bà
H bị hạn chế về thị lực nên bà T lừa dối bà H, để bà H ký chuyển nhượng trong
khi bà H đã có thỏa thuận phân chia phần đất trên ông N, ông Đ, bà T. Tuy
nhiên, như trên đã phân tích, tài sản là của hộ bà H không phải là di sản của cụ S
và cụ M, ông N không cung cấp dược bất kỳ chứng cứ nào chứng minh có thỏa
thuận phân chia thửa đất số 195, ngoài lời khai của ông N, đối với lời khai người
làm chứng ông N1, ông N1 chính là người được bà H ủy quyền theo Giấy ủy
quyền ngày 13/4/2022 để trích lục đo đạc để nhận di sản thừa kế và tặng cho đối
với các thửa đất số 116, 151, 152, tờ bản đồ 22, thửa 694, 784, 787 tờ bản đồ 23,
không có chứng cứ nào chứng minh có thỏa thuận phân chia thửa đất số 195 như
ông N hay ông N1 trình bày. Ông N là người được bà Nguyễn Thị H tặng cho
quyền sử dụng thửa đất số 116, 151, 152, tở bản đồ 22 và thửa đất số 694, 786,
787 theo Hợp đồng tặng cho ngày 29/8/2022. Tất cả các thửa đất trên đều thuộc
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 01394 QSSĐ/1474/QĐ-UB ngày
20/12/1999, chứng cứ này càng chứng minh đất không phải là di sản; thứ hai
chứng minh lời khai ông N cũng như ông Đ cho rằng bà H không đủ sức khỏe
(mắt mờ không thấy đường) để chuyển nhượng cho bà T trong khi việc chuyển
nhượng cho bà T vào năm 2021, tặng cho ông N là vào năm 2022. Mặt khác, tại
thời điểm ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà H, bà T có đầy đủ
năng lực hành vi dân sự, tự nguyện đến cơ quan công chứng ký hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất; công chứng viên công chứng hợp đồng khi
hai bên đã cung cấp đủ bản chính giấy tờ quyền sử dụng đất và các giấy tờ liên
quan. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bà T đã được cập
nhật biến động. Ý kiến của Văn phòng C1, tỉnh Bình Dương và các tài liệu có
trong hồ sơ vụ án thể hiện hành vi của công chứng viên và việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất cho bà T là đúng quy định
của pháp luật. Do đó, ông N yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa bà H với bà T là không có căn cứ.
11
[5] Từ những phân tích trên, xét kháng cáo của nguyên đơn ông N là
không có căn cứ chấp nhận.
[6] Đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tại
phiên tòa, là phù hợp.
[7] Về chi phí tố tụng: Chi phí trích lục hồ sơ với số tiền 1.779.920 đồng,
bị đơn bà T tự nguyện chịu được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp.
[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người
kháng cáo phải chịu. Tuy nhiên, nguyên đơn ông Nguyễn Văn N là người cao
tuổi, có đơn xin miễn án phí nên ông N được miễn nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ Điều 148; khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm
2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn N.
2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 138/2024/DS-ST ngày 30 tháng
8 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bình Dương.
3. Về chi phí tố tụng: Chi phí trích lục hồ sơ với số tiền 1.779.920 đồng
(một triệu bảy trăm bảy mươi chín nghìn chín trăm hai mươi nghìn đồng), bị đơn
bà Nguyễn Thị Ngọc T tự nguyện chịu được khấu trừ vào số tiền tạm ứng đã
nộp (đã thực hiện xong).
4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn N được miễn nộp.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bình Dương;
- Chi cục THADS thành phố B;
- TAND thành phố B;
- Các đương sự;
- Lưu: HCTP, HSVA, Tòa Dân sự.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đinh Thị Mộng Tuyết
Tải về
Bản án số 598/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 598/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 19/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 25/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 18/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm