Bản án số 40/2024/HC-ST ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Bến Tre
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 40/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 40/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 40/2024/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 40/2024/HC-ST ngày 13/09/2024 của TAND tỉnh Bến Tre |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 40/2024/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 13/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Lê Thị T - Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 40/2024/HC-ST
Ngày: 13 - 9 - 2024
V/v “Khiếu kiện quyết định
hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Bà Phạm Thị Thu Trang;
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Huỳnh Thị Sang;
Ông Cao Văn Viết.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Diễm My - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Thu Thương - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử
sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 46/2023/TLST-HC ngày 11 tháng 12 năm
2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”
theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 3384/2024/QĐXXST-HC ngày 27
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện:
Bà Lê Thị T, sinh năm 1950; hộ khẩu thường trú: Số B, N, phường D, Quận
E, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở hiện nay: Số B, ấp C, xã A, huyện C, tỉnh Bến
Tre. (có mặt)
2. Người bị kiện:
2.1. Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm Văn S - Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện C, tỉnh Bến Tre. (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).
2
2.2. Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Bùi Minh T1 - Giám đốc Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh B (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh B: Ông Võ Thành N - Giám đốc Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện
C (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Chị Huỳnh Thị Thúy A, sinh năm 1983; địa chỉ: Số A, đường số D,
phường F, thành phố T, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Huỳnh Thị Thúy A (theo văn bản ủy
quyền ngày 07/11/2023):
Ông Huỳnh Hoàng V, sinh năm 1957; địa chỉ: Số B, ấp P, xã P, huyện C,
tỉnh Bến Tre. (có mặt)
3.2. Anh Nguyễn Long H, sinh năm 1989; địa chỉ: Số B, N, phường D, Quận
E, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Long H (theo văn bản ủy
quyền ngày 01/4/2024):
Bà Lê Thị T, sinh năm 1950; hộ khẩu thường trú: Số B, N, phường D, Quận
E, Thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở hiện nay: Số B, ấp C, xã A, huyện C, tỉnh Bến
Tre. (có mặt)
3.3. Ông Võ Trọng N1, sinh năm 1977; địa chỉ: Ấp C, xã A, huyện C, tỉnh
Bến Tre (có yêu cầu giải quyết vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 09/11/2023, quá trình giải quyết vụ án và tại
phiên tòa, người khởi kiện trình bày:
Bà T khiếu kiện quyết định hành chính, cụ thể: Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện C, Bến Tre cấp cho vợ chồng ông Nguyễn
Văn G và bà Lê Thị T vào ngày 28/7/2010 đối với phần đất thuộc thửa đất số 188,
tờ bản đồ 12, diện tích 145,4m
2
; tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre. Nguồn
gốc đất là do vợ chồng bà nhận chuyển nhượng từ vợ chồng ông Huỳnh Hoàng V,
bà Nguyễn Thị Á và con của ông V, bà Á là chị Huỳnh Thị Khánh A1.
3
Năm 2012, chồng bà là ông Nguyễn Văn G chết. Đầu tháng 05/2023, bà
muốn thực hiện thủ tục thừa kế cho con trai bà là anh Nguyễn Long H đối với phần
đất thuộc thửa 188 nêu trên, nên bà đến Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai
huyện C đăng ký đo đạc thì được Chi nhánh cho biết:
Thửa đất số 188, tờ bản đồ 12 của ông Nguyễn Văn G và bà Lê Thị T được
Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/7/2010
bị cấp sai vị trí đất, theo hiện trạng sử dụng thực tế thửa 188, tờ bản đồ số 12 là của
ông Võ Trọng N1 sử dụng.
Phần đất của bà Lê Thị T đang quản lý, sử dụng nằm trong một phần của
thửa đất số 301, tờ bản đồ số 12 của chị Huỳnh Thị Thúy A được Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh B cấp giấy chứng nhận vào ngày 23/3/2021.
Đến ngày 01/11/2023, bà nhận được Biên bản về việc đo đạc không thành
của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện C thì bà mới biết là thửa đất của
bà bị cấp sai vị trí. Việc này làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà.
Vì vậy nay bà T khởi kiện yêu cầu:
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 030013, số vào sổ cấp GCN
000089 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre cấp cho ông Nguyễn Văn G và
bà Lê Thị T vào ngày 28/7/2010 đối với phần đất thửa 188, tờ bản đồ 12, diện tích
145,4m
2
; tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 306345, số vào sổ cấp GCN
CS03601 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho bà Huỳnh Thị Thúy A
vào ngày 23/3/2021 đối với phần đất thửa 301, tờ bản đồ 12, diện tích 2.840m
2
(trong đó có 200m
2
đất ở nông thôn và 2640m
2
đất trồng cây lâu năm) tọa lạc tại xã
A, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Tại văn bản số 5982/STNMT-VPĐK ngày 28/12/2023, người bị kiện Sở Tài
nguyên và Môi trường tỉnh B trình bày:
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (viết tắt là Giấy chứng
nhận) cho chị Huỳnh Thị Thúy A, thửa đất số 301, tờ bản đồ số 12, có số phát hành
CY 306345, số vào sổ cấp GCN: CS03601, tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre, ký
ngày 23 tháng 3 năm 2021 dựa trên cơ sở:
Về quy định: Căn cứ Điều 75 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15
tháng 5 năm 2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai, sửa đổi được bổ sung Điều 2 của Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày 06
4
tháng 01 năm 2017 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi
tiết thi hành Luật đất đai.
- Về quy trình: Thực hiện theo Thủ tục tách thửa hoặc hợp thửa đất thuộc
Quyết định số 1718/QĐ-UBND ngày 13 tháng 8 năm 2019 của Ủy ban nhân dân
tỉnh B về việc công bố 01 thủ tục hành chính ban hành mới, 30 thủ tục hành chính
thay thế và 04 thủ tục hành chính bị bãi bỏ trong lĩnh vực đất đai thuộc thẩm quyền
giải quyết của Sở T.
- Về giấy tờ hợp pháp:
+ Giấy chứng nhận được Sở Tài nguyên và Môi trường cấp cho chị Huỳnh
Thị Thúy A có số phát hành CX 614428, số vào sổ cấp GCN: CS03521 ngày 27
tháng 10 năm 2020.
+ Đơn đề nghị tách thửa đất, hợp thửa đất ngày 05 tháng 01 năm 2021.
Việc Sở T cấp Giấy chứng nhận cho chị Huỳnh Thị Thúy A đối với thửa đất
số 301, tờ bản đồ số 12, xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre là đúng theo quy định.
Việc yêu cầu “hủy” Giấy chứng nhận đã cấp cho chị Huỳnh Thị Thúy A có
số phát hành CY 306345, số vào sổ cấp GCN: CS03601 phải đảm bảo theo quy
định tại khoản 7, Điều 87 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm
2014 của Chính phủ. Nếu yêu cầu “thu hồi” Giấy chứng nhận đã cấp phải thực
hiện đúng theo quy định tại khoản 6, Điều 87 Nghị định 43/2014/NĐ-CP.
Việc yêu cầu “hủy” Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 030013, số
vào sổ cấp GCN: 000089 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Văn G
và bà Lê Thị T vào ngày 28/7/2010 không thuộc thẩm quyền của Sở Tài nguyên và
Môi trường tỉnh B.
Từ những cơ sở trên, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B không đồng ý với
yêu cầu khởi kiện của bà T, do trình tự thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho chị Huỳnh Thị Thúy A là đúng quy định.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người bị kiện Ủy ban nhân dân huyện C,
tỉnh Bến Tre có văn bản yêu cầu giải quyết vắng mặt, tuy nhiên, không có văn bản
nêu ý kiến đối với vụ kiện.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ
quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Huỳnh Thị Thúy A là ông
Huỳnh Hoàng V trình bày:
Đối với yêu cầu khởi kiện của bà T thì chị A đồng ý, bởi vì Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CY 306345, số vào sổ cấp GCN CS03601 do Sở Tài nguyên
5
và Môi trường tỉnh B cấp cho chị Huỳnh Thị Thúy A vào ngày 23/3/2021 đối với
phần đất thuộc thửa 301, tờ bản đồ 12, diện tích 2.840m
2
(trong đó có 200m
2
đất ở
nông thôn và 2.640m
2
đất trồng cây lâu năm) tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến
Tre là đã cấp nhầm phần diện tích 145,4m
2
, nay qua đo đạc thực tế có diện tích
152,7m
2
của bà T vào chung thửa 301 của chị A.
Vì vậy, chị A đồng ý huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY
306345, số vào sổ cấp GCN CS03601 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp
cho chị Huỳnh Thị Thúy A vào ngày 23/3/2021.
Trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là
ông Võ Trọng N1 trình bày:
Ông đang đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất có
diện tích 145,4m
2
thuộc thửa đất số 188, tờ bản đồ số 12; tọa lạc tại ấp C, xã A,
huyện C, tỉnh Bến Tre do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre cấp vào ngày
25/12/2015. Hiện nay, trên phần đất này có ngôi nhà của ông đang sinh sống trên
đất. Từ trước đến nay, ông là người quản lý, sử dụng phần đất thuộc thửa đất số
188, phía bà Lê Thị T không có quản lý, sử dụng phần đất này.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán và Hội
đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Những người tham gia
tố tụng tại phiên tòa đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Luật
Tố tụng hành chính.
Về nội dung: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng hành chính,
đề nghị Tòa án tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T:
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 030013, số vào sổ cấp GCN
000089 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre cấp cho ông Nguyễn Văn G và
bà Lê Thị T vào ngày 28/7/2010 đối với phần đất thửa 188, tờ bản đồ 12, diện tích
145,4m
2
, tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 306345, số vào sổ cấp GCN
CS03601 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho chị Huỳnh Thị Thúy A
vào ngày 23/3/2021 đối với phần đất thửa 301, tờ bản đồ 12, diện tích 2.840m
2
(trong đó có 200m
2
đất ở nông thôn và 2640m
2
đất trồng cây lâu năm) tọa lạc tại xã
A, huyện C, tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
6
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra xem
xét tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội
đồng xét xử sơ thẩm vụ án hành chính xét thấy:
[1] Về tố tụng:
Người bị kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, Ủy ban nhân dân huyện
C và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Võ Trọng N1 có đơn đề nghị Tòa
án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 158 của Luật Tố tụng hành chính,
Tòa án xét xử vắng mặt người bị kiện Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B, Ủy ban
nhân dân huyện C và ông N1.
[2] Về thời hiệu khởi kiện:
Vào tháng 5/2023, bà T yêu cầu Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai
huyện C đo đạc phần đất thuộc thửa đất số 188 thì ngày 01/11/2023 bà T nhận
được Biên bản về việc đo đạc không thành thể hiện thửa đất số 188, tờ bản đồ 12
của ông Nguyễn Văn G và bà Lê Thị T được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 28/7/2010 được cấp sai vị trí đất là ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà.
Đến ngày 09/11/2023, Tòa án nhận được đơn khởi kiện của bà T. Theo quy
định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, thời hiệu
khởi kiện 01 năm vẫn còn.
[3] Về thẩm quyền giải quyết: Theo quy định tại khoản 3 Điều 32 của Luật
Tố tụng hành chính về thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh thì Tòa án nhân
dân tỉnh Bến Tre thụ lý vụ án hành chính là đúng thẩm quyền.
[4] Xét tính hợp pháp và có căn cứ của quyết định hành chính:
[4.1] Xét Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện C
cấp cho bà Lê Thị T, ông Nguyễn Văn G vào ngày 28/7/2010:
[4.1.1] Về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính:
Ngày 28/7/2010, Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà T, ông G đối với diện tích 145,4m
2
, thuộc thửa đất số 188, tờ bản
đồ số 12, tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre là đúng theo quy định tại khoản 2
Điều 105 của Luật Đất đai.
[4.1.2] Về trình tự thủ tục và nội dung của quyết định hành chính:
7
Xét thấy năm 2010, ông G và bà T có nhận chuyển nhượng của vợ chồng
ông Huỳnh Hoàng V, bà Nguyễn Thị Á và con của ông V, bà Á là chị Huỳnh Thị
Khánh A1 phần đất diện tích 145,4m
2
thuộc thửa đất số 188, tờ bản đồ số 12, loại
đất ở tại nông thôn, tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre. Đến ngày 28/7/2010,
bà T, ông G được Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất.
Năm 2012, ông G chết, đến năm 2023 bà T có nhu cầu chuyển quyền sử
dụng đất cho con trai là anh Nguyễn Long H nên bà T yêu cầu Chi nhánh Văn
phòng Đăng ký đất đai huyện C đo đạc thửa đất. Vào ngày 01/11/2023 Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai huyện C Biên bản về việc đo đạc không thành, lý do:
“đã cấp trùng thửa cho Huỳnh Thị Thúy A thửa 301, tờ 12. Thửa đúng 188, tờ 12
của ông Võ Trọng N1”, nên Chi nhánh trả lại đơn yêu cầu đo đạc cho bà T.
Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện: Vào ngày 25/12/2015
ông Võ Trọng N1 được Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số CB 016373, số vào sổ cấp GCN CH 02518 đối với diện tích 145,4m
2
,
thuộc thửa đất số 188, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án, các đương sự đều thống nhất xác định
phần đất này từ trước đến nay đều do ông N1 quản lý, sử dụng. Điều này là phù
hợp với nội dung của Biên bản về việc đo đạc không thành ngày 01/11/2023 Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện C.
Như vậy, việc Ủy ban nhân dân huyện C đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà T, ông G đối với diện tích 145,4m
2
, thuộc thửa đất số 188, tờ bản
đồ số 12 vào năm 2010 là cấp không đúng đối tượng và thực tế sử dụng đất. Do đó,
bà T khởi kiện yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân
dân huyện C cấp cho bà T, ông G là có cơ sở và phù hợp với quy định tại Điều 106
của Luật đất đai năm 2013.
[4.2] Xét Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B cấp cho chị Huỳnh Thị Thúy A vào ngày 23/3/2021:
[4.2.1] Về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính:
Ngày 23/3/2021 Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho chị Huỳnh Thị Thúy A đối với diện tích 2.840m
2
thuộc thửa
đất số 301, tờ bản đồ số 12, tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre là đúng theo
quy định tại khoản 1 Điều 37 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của
Chính phủ.
[4.2.2] Về trình tự thủ tục và nội dung của quyết định hành chính:
8
Xét thấy qua kết quả xem xét thẩm định tại chỗ và đo đạc thực tế xác định:
Phần đất bà T và ông Gia nhận chuyển nhượng của bà Á, ông V, chị Khánh A1 vào
năm 2010 do bà T đang quản lý sử dụng, có nhà trên đất từ năm 2010 cho đến nay,
qua đo đạc thực tế có diện tích 152,7m
2
(gồm thửa 301-1 diện tích 13,9m
2
; 301-2
diện tích 83,7m
2
; 301-3 diện tích 6,1m
2
; 301-4 diện tích 13,2m
2
; 301-5 diện tích
30,6m
2
; 301-6 diện tích 5,2m
2
) thuộc một phần thửa đất số 301, tờ bản đồ 12 hiện
do chị Huỳnh Thị Thúy A đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Phía chị A cũng thừa nhận phần đất có diện tích 152,7m
2
thuộc một phần
thửa đất số 301 do bà T đang quản lý là phần đất mà gia đình chị A đã chuyển
nhượng cho ông G, bà T vào năm 2010, cơ quan nhà nước đã cấp nhầm phần đất
có diện tích 152,7m
2
này vào thửa 301 của chị A nên chị A đồng ý hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp chị A vào
ngày 23/3/2021 để các bên thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận lại theo đúng
quy định.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai năm 2013 về đính
chính, thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp:
“2. Nhà nước thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau
đây:
d) Giấy chứng nhận đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng
sử dụng đất, không đúng diện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng
mục đích sử dụng đất hoặc thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo
quy định của pháp luật đất đai, trừ trường hợp người được cấp Giấy chứng nhận
đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất
theo quy định của pháp luật đất đai.”
Ngoài ra, tại khoản 6, khoản 7 Điều 87 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15 tháng 05 năm 2014 về Thủ tục thu hồi giấy chứng nhận, Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở, giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng đã cấp,
quy định:
“…. 6. Việc thu hồi Giấy chứng nhận đã cấp không thuộc trường hợp quy
định tại Khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai chỉ được thực hiện khi có bản án hoặc
quyết định của Tòa án nhân dân đã được thi hành”.
Trong trường hợp này, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị Huỳnh
Thị Thúy A được Sở T cấp vào năm 2021 thông qua thủ tục chuyển quyền sử dụng
đất nhưng do một phần thửa đất số 301 cấp cho chị Huỳnh Thị Thúy A không đúng
đối tượng và thực tế sử dụng nên việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
9
chị Huỳnh Thị Thúy A không đảm bảo theo quy định pháp luật. Vì vậy, việc thu
hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị Huỳnh Thị Thúy A được thực hiện
theo khoản 6, 7 Điều 87 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ.
Từ những phân tích trên, xét thấy việc bà T khởi kiện yêu cầu hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre cấp
ngày 28/7/2010 cho ông Nguyễn Văn G và bà Lê Thị T đối với phần đất thửa 188,
tờ bản đồ 12, diện tích 145,4m
2
và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho chị Huỳnh Thị Thúy A vào ngày
23/3/2021 đối với phần đất thửa 301, tờ bản đồ 12, diện tích 2.840m
2
(trong đó có
200m
2
đất ở nông thôn và 2640m
2
đất trồng cây lâu năm) tọa lạc tại xã A, huyện C,
tỉnh Bến Tre là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với các tài
liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được
chấp nhận.
[6] Về chi phí tố tụng: Bà Lê Thị T tự nguyện chịu và đã nộp đủ số tiền
6.235.000 đồng.
[7] Về án phí hành chính sơ thẩm: Do yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện
được chấp nhận nên người bị kiện phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 158; điểm b khoản 2 Điều 193 của Luật Tố tụng
hành chính;
Căn cứ vào Luật Đất đai năm 2003; Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số
326/2016/UNTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T.
Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BA 030013, số vào sổ cấp GCN
000089 do Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre cấp cho ông Nguyễn Văn G và
bà Lê Thị T vào ngày 28/7/2010 đối với phần đất thửa 188, tờ bản đồ 12, diện tích
145,4m
2
, tọa lạc tại xã A, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CY 306345, số vào sổ cấp GCN
10
CS03601 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B cấp cho chị Huỳnh Thị Thúy A
vào ngày 23/3/2021 đối với phần đất thửa 301, tờ bản đồ 12, diện tích 2.840m
2
(trong đó có 200m
2
đất ở nông thôn và 2640m
2
đất trồng cây lâu năm) tọa lạc tại xã
A, huyện C, tỉnh Bến Tre.
(Có họa đồ hiện trạng sử dụng đất kèm theo).
2. Về chi phí tố tụng khác: Bà Lê Thị T tự nguyện chịu và đã nộp đủ số tiền
6.235.000đ (sáu triệu hai trăm ba mươi lăm nghìn đồng).
3. Về án phí hành chính sơ thẩm:
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn
đồng), nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre.
Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn
đồng), nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bến Tre.
Bà Lê Thị T thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền làm đơn
kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng các
đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười
lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- TAND cấp cao tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- Cục THADS tỉnh Bến Tre;
- Phòng KTNV&THAHS tỉnh
Bến Tre;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Thị Thu Trang
Tải về
Bản án số 40/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 40/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm