Bản án số 158/2024/DS-PT ngày 19/11/2024 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp về thừa kế tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 158/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 158/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 158/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 158/2024/DS-PT ngày 19/11/2024 của TAND tỉnh Thái Nguyên về tranh chấp về thừa kế tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp về thừa kế tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Thái Nguyên |
Số hiệu: | 158/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/11/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự; chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Chu Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Chu Thị H, ông Chu Văn T3; huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 34/2024/DSST ngày 09/5/2024 của Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI NGUYÊN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án s: 158/2024/DS-PT
Ngày: 19/11/2024
V/v Tranh chấp Thừa kế
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Hoàng Quý Sửu
Các thẩm phán: Bà Lê Thị Hồng Phương và bà Nguyễn Thị Thuỷ
- Thư ký phiên tòa: Bà Vũ Thị Huế, Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Thái
Nguyên
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên: Bà Lê Thị Hương
Giang, Kiểm sát viên.
Trong các ngày 14/10/2024, 14/11/2024 và 19/11/2024, tại Hội trường xét
xử Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự
thụ lý s 86/2024/DS-PT ngày 20/6/2024 về việc tranh chấp Thừa kế
Do bản án dân sự sơ thẩm s 34/2024/DS-ST ngày 09/5/2024 của Tòa án
nhân dân thành ph Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên có kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử s 168/2024/QĐ - PT ngày 05/8/2024;
giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Chu Thị T, sinh năm 1963; địa chỉ: Xóm P, xã B, huyện
S, thành ph Hà Nội; có mặt.
Bị đơn:
1. Ông Chu Văn T1, sinh năm 1967; ủy quyền cho ông Nguyễn Văn T2,
sinh năm 1984; Địa chỉ: Xóm C, xã L, huyện V, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông T1: Luật sư Nguyễn Đức
N; Công ty L1 – Đoàn Luật sư thành ph H; có mặt.
2. Ông Chu Văn C, sinh năm 1963; ủy quyền cho bà Đàm Thị C1, sinh năm
1969; địa chỉ: Xóm K, xã T, TP T, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Chu Thị H; sinh năm 1960; địa chỉ: S nhà A tổ A, phường M, thành
ph S, tỉnh Thái Nguyên; có mặt.
2. Ông Chu Văn T3, sinh năm 1968; có mặt
3. Bà Đỗ Thị Minh T4, sinh năm 1977; có mặt
2
4. Bà Nguyễn Thị T5, sinh năm 1975; có mặt
5. Bà Đàm Thị C1, sinh năm 1969; có mặt.
Cùng địa chỉ: Xóm K, xã T, thành ph T, tỉnh Thái Nguyên.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Chu Văn T3: Luật sư
Nguyễn Đình S, Văn phòng L2, đoàn luật sư tỉnh T; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn bà Chu Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Chu
Thị H trình bày:
Cụ Chu Sỹ M chết năm 1970 và cụ Luân Thị Đ chết năm 2018 sinh được
05 người con gồm: Chu Văn C, Chu Thị H, Chu Thị T, Chu Văn T1, Chu Văn
T3.
Di sản cụ M, cụ Đ để lại gồm có thửa s 619 tờ bản đồ s 4, diện tích 4.128
m2, trong đó có 1.400m2 đất ở, 2.728m2 đất trồng cây lâu năm, UBND thành
ph T cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 09/5/2009 mang tên cụ
Luân Thị Đ và một s thửa đất ruộng, UBND thành ph T cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ngày 29/4/1994 mang tên cụ Luân Thị Đ, gồm:
Thửa 105 tở bản đồ s 6, diện tích 216m2 (nay là thửa 470, tờ bản đồ địa
chính s 4, diện tích 180m2);
Thửa 198, tờ bản đồ s 6, diện tích 1310m2 (nay là thửa 592 diện tích
656m2 ông C sử dụng và một phần diện tích thuộc thửa 643, diện tích 630m2
ông T3 sử dụng);
Thửa 108, tờ bản đồ s 6, diện tích 915m2 (nay là thửa 473, tờ bản đồ s 4,
diện tích 780m2 ông T3 sử dụng);
Thửa 202, tờ bản đồ s 6, diện tích 340m2 nay là thửa 620 (đất ao)
Thửa 84, diện tích 220m2, thửa 85, diện tích 376m2 (đất PAM)
Thửa 205, diện tích 210m2 nay là thửa 620 (đất màu)
Thửa 206, diện tích 230m2 (nay đo bao gộp vào đất thổ cư nằm trong thửa
619 tờ bản đồ s 4 diện tích theo bản đồ địa chính là 4.128m2, ông C đang sử
dụng.
Thửa 78, diện tích 120m2; Thửa 79, diện tích 44m2; Thửa 82, diện tích
312m2, thửa 83, diện tích 180 nay là 253, 254, 255; thửa 88, diện tích 545m2;
Thửa 89, diện tích 150m2
Khi hai cụ chết không để lại di chúc, không nợ ai, không cho ai vay. Ông
Chu Văn C lo mai táng phí cộng với s tiền cụ Đ để lại là 33 triệu đồng và tiền
tuất vợ liệt sỹ, 02 người con gái là bà Chu Thị H, Chu Thị T mỗi người đóng
góp s tiền 1.500.000 đồng.
Hiện nay di sản thừa kế của cụ M, cụ Đ ông C đang quản lý đất màu, đất
thổ cư, gồm các thửa: 105, 205, 202, 206, 198 và 1.400m2 đất thổ cư 2.728m2
3
đất trồng cây lâu năm, thửa 202 tờ bản đồ s 6, diện tích 340m2 nay là thửa 620,
1 phần Thửa 198, tờ bản đồ s 6, diện tích 1310m2, nay là thửa 592 diện tích
656m2 ruộng, Thửa 105 tờ bản đồ 6, diện tích 216m2 nay là thửa 470, tờ bản đồ
s 4, diện tích 180m2 ruộng canh tác.
Ông T3 đang quản lý sử dụng các thửa 78, 79, 108, ngoài ra ông T3 còn sử
dụng thửa 886, thửa 199, thửa 200, 201 được b mẹ cho đất riêng đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần tài sản ông T3 đang quản lý sử dụng
không có tranh chấp. Riêng đất ruộng của ông T3 có 3 thửa đang sử dụng nằm
trong bìa đỏ của cụ Đ là định suất ruộng của ông T3 nên không yêu cầu chia
phần đất này.
Ông T1 quản lý sử dụng các thửa đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của cụ Đ.
Bà Chu Thị T đề nghị Tòa án chia thừa kế theo quy định của pháp luật.
Nguyện vọng được chia bằng đất tại các thửa đất màu s 82, 83, đất Pam thửa
84, 85, 88, 89, tờ bản đồ s 06.
Bị đơn: Ông Chu Văn C trình bày:
Về hàng thừa kế như bà T trình bày là đúng. Về di sản như bà T trình bày
tất cả đất đai ông C, ông T3, ông T1 sử dụng đều có nguồn gc của cụ M, cụ Đ
để lại. Nay anh em không thng nhất tự chia được, đề nghị chia thừa kế theo
pháp luật, đề nghị Tòa án xem xét công sức cho vợ chồng ông C theo quy định
và phân chia cho hợp lý. Ông nhất chia đất cho bà T và bà H.
Ông Chu văn T1 trình bày:
Về di sản của b mẹ để lại đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
năm 1994, cấp đổi năm 2009, hiện tại ông đang sử dụng 03 thửa đất màu của cụ
Đ là thửa 253 diện tích 328m2, thửa 254 diện tích 170m2, thửa 255 diện tích
142m2 và 03 thửa đất Pam là thửa 84, 85, 88, tờ bản đồ địa chính s 3 đo đạc
năm 1995, những thửa trên vẫn trong bìa đỏ của cụ Đ. Hiện tại ông T1 đang sử
dụng thửa 189 theo bản đồ địa chính là thửa 1052, 1053, hiện trạng 3.047.94m2,
ông T1 đã xây nhà 2 tầng, bếp và công trình phụ trồng cây ăn quả và cây keo,
trong đó ông T1 được cấp bìa đỏ 400m2 đất thổ cư là thửa 971, tờ bản đồ s 3,
nằm trong thửa 189 và thửa 892 diện tích 1970m2, nằm trong thửa 189 (thửa
gc), tờ bản đồ s 3 đất rừng sản suất và thửa 189 gc còn lại diện tích là
4.252,1m2.
Ngoài ra b mẹ ông còn để lại toàn bộ tài sản của ông C và ông T3 đang sử
dụng, cụ thể ông C sử dụng 04 thửa đất với tổng diện tích 5.508 m2, giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mang tên cụ Đ; ông Chu Văn T3 sử dụng 10.552,8 m2
có nguồn gc của cụ Đ bao gồm: 04 thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên cụ Đ: thửa 78 (191) diện tích 120m2, thửa 79 (190),
thửa 108 (473) và một phần thửa 198 (643), diện tích 1.652 m2 và các thửa đất
có nguồn gc của cụ Đ nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận với tổng diện tích
8.900,8 m2. Ông T1 đề nghị áp dụng thời hiệu khởi kiện đi với phần di sản của
4
cụ M, phần của cụ Đ đề nghị chia thừa kế theo pháp luật, đề nghị xem xét công
sức cho vợ chồng ông T1 theo pháp luật.
Ông Chu Văn T3 trình bày:
Về di sản của b mẹ để lại đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
năm 1994, cấp đổi năm 2009. Hiện nay Ông Chu Văn T3 đang sử dụng các thửa
đất có nguồn gc của cụ Đ bao gồm: 1 phần thửa 198 nay là thửa 643, diện tích
630m2, thửa 108, tờ bản đồ s 6, diện tích 915m2 nay là thửa 473, tờ bản đồ s
4, diện tích 780m2, thửa 78, diện tích 120m2 nay là thửa 191, diện tích
271,8m2; thửa 79 nay là thửa (190), diện tích 239,1m2, đây là đất trong bìa đỏ
của cụ Đ. Còn lại có nguồn gc của cụ Đ cho có các thửa đất sau: Thửa 886 diện
tích 777m2, thửa 199, diện tích 276m2, thửa 186, diện tích 114,2m2, thửa 187,
diện tích 60,6m2, thửa 192 diện tích 39,4 m2, thửa 200, thửa 201 cụ Luân Thị Đ
đã cho ông để làm nhà ở riêng đã có giấy viết tay có chữ ký của cụ Đ và được
các thành viên gia đình xác nhận giấy viết cho đất ghi ngày 10/10/1997, trong đó
thửa 200 đã cấp bìa đỏ từ năm 1998, thửa 201 cấp bìa đỏ năm 2013.
Đi với thửa 886 là đất của cụ Luân Thị Đ, ông T3 đang quản lý đồng ý
chia theo quy định của pháp luật. Yêu cầu công nhận thửa 108 - 915 m2 (nay là
thửa 473 - 780m2) và ½ thửa 198 - 1310m2 (nay là thửa 643 - 630m2) là định
suất ruộng của ông T3, không phải là di sản của cụ Đ.
Tại bản án sơ thẩm s 34/2024/DS-ST ngày 09/5/2024 Tòa án nhân dân
thành ph Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định:
Áp dụng các Điều 26, Điều 35, Điều 147, Điều 157, Điều158, Điều 165,
Điều 166, Điều 227, 228 Bộ luật t tụng dân sự; Điều 623, Điều 649, Điều 650
Điều 651 Điều 660 Bộ luật dân sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí Tòa án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà T, yêu cầu độc lập của ông T1 ông T3.
Tuyên xử:
Giao cho bà T đất và tài sản trên toàn bộ phần đất được giao là 141 m2 đất
BHK thửa 191 TBĐ s 3 (theo sơ đồ 12,13,14,15,16,a,b,12), 485,87m2 đất trong
đó có 441,7m2 đất rừng thửa 1052 TBĐ s 3 (theo sơ đồ f,n,m,l,k,i,f), 44,1m2
thửa 190 TBĐ s 3 (theo sơ đồ e,f,n,m,e) và 413,4m2 đất rừng thửa 886 TBĐ s
3 theo sơ đồ (a, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, c, a), và 0,4m2 thửa 191 theo sơ đồ (14,
b, c, 14), 186,7 m2 đất ruộng thửa 592 TBĐ s 4 ( theo sơ đồ đ, 18, 19, e, f, c,
đ), 220m2 thửa 619 TBĐ s 4 (trong đó có 100m2 thổ cư và 120m2 cây lâu năm
theo sơ đồ g, h, k, i, 16, g). Tổng giá trị tài sản là: 178.103.900đ. (có sơ đồ kèm
theo).
Giao đất và tài sản trên phần đất cho bà H sử dụng là 491,5m2 trong đó
thuộc thửa 190 TBĐ s 3 là 195m2 m2 đất BHK (theo sơ đồ 10, 11, r, e, f, h,
10) và 296,5m2 thửa 1052 TBĐ s 3 theo sơ đồ (g, 8, 9, h, f, i, g); 128,9m2 đất
BHK thửa 191 TBĐ s 3 theo sơ đồ( a, b, c, d, a) và 12,05m2 thửa 190 TBĐ s
5
3 ( theo sơ đồ c, d, 10, 11, c), 395,7m2 đất rừng trong đó có 331,3m2 thửa 886
TBĐ s 3 (theo sơ đồ a, c, e, f, a) và 5,7m2 thửa 191 TBĐ s 3 (theo sơ đồ b, c,
e, d, b), 58,67m2 thửa 1052 TBĐ s 3 (theo sơ đồ e, f, g, 3, 2, h, e); 186,6m2
đất ruộng thủa 592 TBĐ s 4 theo sơ đồ (16,17,d,c,b,16), 200m2 đất thửa 619
TBĐ s 4 (trong đó có 100m2 đất thổ cư, 100m2 đất cây lâu năm (theo sơ đồ h,
k, l, m, h). Tổng giá trị tài sản là 178.067.800 đồng (có sơ đồ kèm theo).
Giao cho ông C sở hữu 1 nhà xây cấp 4 và được quyền sử dụng 2.463,6m2
thửa 619 TBĐ s 4 trong đó có 1200m2 đất thổ cư, 1.263,6m2 đất cây lâu năm
(theo sơ đồ m, l, n, o, p, q, 26, 27, 28, v, x, 3, 4, 5, i, 6, u, r, s, t, m), 544m2 đất
ao thửa 620 (theo sơ đồ T, u, g, S, T) và 192,3m2 đất ruộng thửa 470 TBĐ s 4
(theo sơ đồ e, f, g, h, i, k, 27, m, n, e). Tổng giá trị là 1.513.208.000đ. Trong đó
kỷ phần của ông C được hưởng là 1 kỷ phần 178.067.800đ và phần di sản hết
thời hiệu khởi kiện là 932.076.200đ tổng cộng là 1.289.063.872đ (trong đó 1 kỷ
phần công sức giao cho ông C và bà C1), ông C phải thanh toán trả cho ông T1
136.737.846 đồng, trả ông T3 24.200.200 đồng.
Giao cho ông T1 426,6m2 m2 đất rừng thửa 1052 tờ bản đô s 3 theo sơ đồ
(L, k, o, p, q, L); 3.007.3 m2 đất BKH thửa 1053 tờ bản đồ s 3 theo sơ đồ (Đ,
E, F, G, H, I, 16, 15, 14, 13, 12, 11, Đ) trong đó có 400m2 đất thổ cư; 4.129,1m2
đất rừng thửa 189 tờ bản đồ s 3 (theo sơ đồ
a,b,3,2,c,d,e,f,g,h,11,10,9,I,k,7,6,5,a); 186m2 ruộng thửa 592 tờ bản đồ s 4
(theo sơ đồ 13, 14, 15, 16, b, a, 13); 276m2 đất và tài sản trên đất tại thửa 199 tờ
bản đồ s 3 loại đất BHK (theo sơ đồ 1, 2, 3, 4, 5, a, b, c, d, 1) . Tổng giá trị tài
sản là 383.512.7000 đồng và s tiền ông C thanh toán cho ông T1 136.737.846
đồng. Tổng cộng ông T1 được hưởng là 520.250.186 đồng (trong đó có đó có
tiền công sức là 150.000.000đ được giao cho ông T1 và bà T3) và phần hết thời
hiệu của cụ M.
Giao cho ông T3 sử dung diện tích đất gồm: 27,1 m2 tại thửa 192 TBĐ s 3
(theo sơ đồ A, B, C, t, S, r, A) và 1.165,2 m2 thửa 200 TBĐ s 3 theo sơ đồ (1,
2, 3, 4, H, G, 1), 6.642,3 m2 thửa 201 tờ bản đồ s 3 + 200m2 đất thổ cư thửa
200 tờ bản đồ s 3 theo sơ đồ (1,2,3,4, A, 6,7,8,9, B, C, D, E, F, 15, 16, 17,18,
20, 21, 22, 23, 24, 25, 1) và 114,2m2 thửa 186, TBĐ s 3 theo sơ đồ (1, 4, 5, 6,
7, 8, 1), 59,1 m2 đất thửa 187 TBĐ s 3 (theo sơ đồ 1, 8, 8, A, 1). Tổng tài có
giá trị 608.587.200 đồng trong đó có kỷ phần của ông T3 được hưởng là
178.067.800 đồng + phần di sản hết hiệu khởi kiện của cụ M là 304.293.600đ +
150.000.000 đồng công sức (giao cho bà T5 ông T3) và s tiền 24.200.200 đồng
do ông C thanh toán.
Giao cho ông T3 2 thửa ruộng là thửa s 473 TBĐ s 4 diện tích 899,9 m2
theo sơ đồ (4, 5, a, b, 11, 12, c, d, 15, 16, 17, 18, 4); thửa 643 tờ bản đồ s 4 diện
tích 583,2m2 theo sơ đồ (1,2,3, h, g, f, 1)
Xác định diện tích 551,4m2 tại thửa 619 tờ bản đồ s 4 có sơ đồ kèm theo
là đường đi chung (có sơ đồ kèm theo a, b, c, d, e, f, 10, 11, 12, 13, 14, 15, g, h,
m, t, u, 6, 7, a).
6
Các đương sự được quyền đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm
quyền chỉnh lý lại biến động về đất đai cho phù hợp với quy định của pháp luật.
Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí, chi phí
t tụng và quyền kháng cáo của đương sự.
Ngày 23/5/2024, nguyên đơn bà Chu Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ
liên quan bà Chu Thị H, ông Chu Văn T3 có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ
thẩm. Nội dung kháng cáo, bà H, bà T đề nghị chia thừa kế theo pháp luật đi
với toàn bộ diện tích đất là di sản thừa kế của cụ M, cụ Đ, bao gồm cả diện tích
đất cụ Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và diện tích đất chưa
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Nội dung kháng cáo ông T3 cho rằng: Thửa đất s 199, 200, 201 có nguồn
gc là di sản thừa kế của cụ M, cụ Đ khai phá từ năm 1960. Năm 1999, ông T3
làm đơn xin giãn cư, được UBND xã T đồng ý, năm 1999, 2013, UBND thành
ph T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa 200, 201 cho ông T3, thửa
199 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Các thửa đất 199, 200,
201 ông T3 được cụ Đ cho đất, các anh chị em ruột gồm ông C, ông T3, bà H,
bà T đều xác định 03 thửa đất này cụ Đ cho ông T3. Toà án cấp sơ thẩm xác
định cả 03 thửa đất này là di sản thừa kế để chia là không đúng.
Tại phiên toà phúc thẩm:
Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và đại diện theo
uỷ quyền giữ nguyên đơn kháng cáo và nội dung trình bày tại cấp sơ thẩm như
nêu trên.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Chu Văn T1 tranh luận
cho rằng: Thời điểm cụ M chết có ngôi nhà 03 gian trình tường, đến năm 1987
cụ Đ cùng các con phá dỡ để xây nhà mới, nên di sản thừa kế là nhà ở không
còn, các đương sự cũng không đề nghị chia di sản thừa kế là ngôi nhà, nên
không áp dụng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện thừa kế từ ngày
01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 theo hướng dẫn tại Nghị quyết s 58/1998/NQ-
UBTVQH ngày 20/8/1998 của Uỷ ban Thường vụ Quc hội. Ông T1 đề nghị áp
dụng thời hiệu khởi kiện đi với phần di sản của cụ M là có căn cứ. Đề nghị Hội
đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T3, bà T, bà H, giữ nguyên bản
án sơ thẩm.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Chu Văn T3 tranh luận
cho rằng: Thửa đất s 199, 200, 201 có nguồn gc là di sản thừa kế của cụ M, cụ
cụ Đ. Năm 1999, ông T3 làm đơn xin giãn cư, được UBND xã T đồng ý, năm
1999, 2013 UBND thành ph T cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa
200, 201 cho ông T3, thửa 199 chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Các thửa đất 199, 200, 201 ông T3 được cụ Đ cho đất, các anh chị em ruột
gồm ông C, ông T3, bà H, bà T đều xác định 03 thửa đất này cụ Đ cho ông T3.
Toà án cấp sơ thẩm xác định cả 03 thửa đất này là di sản thừa kế để chia theo
pháp luật là không đúng.
7
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu quan điểm:
Thẩm phán chủ tọa phiên toà, Hội đồng xét xử, các đương sự chấp hành đúng
các quy định của Bộ luật t tụng dân sự. Về nội dung giải quyết vụ án, đề nghị
Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Chu Thị T, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Chu Thị H, ông Chu Văn T3, huỷ án sơ thẩm,
giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành ph Thái Nguyên xét xử sơ thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe
đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Hội đồng xt xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng:
[1] Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kháng cáo trong
hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo của các đương sự, thấy:
Về thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế và việc áp dụng thời hiệu khởi
kiện của Toà án cấp sơ thẩm:
[2] Theo yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện của ông Chu Văn T1 đi
với yêu cầu chia di sản thừa kế của cụ Chu Sỹ M chết năm 1970, Toà án cấp sơ
thẩm đã áp dụng thời hiệu khởi kiện đi với yêu cầu chia di sản của cụ M, xác
định phần di sản của cụ M hết thời hiệu khởi kiện, công nhận, giao cho ông C,
ông T1, ông T3 được sử dụng phần di sản là quyền sử dụng đất của cụ M hiện
ông C, ông T1, ông T3 đang quản lý, sử dụng.
[3] Giải đáp s 01/GĐ-TANDTC ngày 05/01/2018 của Toà án nhân dân
ti cao giải đáp một s vấn đề nghiệp vụ, Mục I về Dân sự ghi:
Kể từ ngày Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành, theo quy định
tại điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản 4 Điều 4 Nghị
quyết số 02/2016/NQ-HĐTP ngày 30-6-2016 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết số
103/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Tố
tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 ngày 25-11-2015 của Quốc hội
về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính thì từ ngày 01-01-2017, Tòa án áp
dụng khoản 1 Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 về thời hiệu thừa kế để thụ
lý, giải quyết vụ án dân sự "Tranh chấp về thừa kế tài sản”. Theo đó, thời hiệu
để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản kể từ thời
điểm mở thừa kế.
Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 10-9-1990 thì thời hiệu khởi
kiện chia di sản thừa kế là bất động sản được thực hiện theo quy định tại Điều
36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/HĐTP
ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn
8
áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế, cụ thể là: thời hiệu khởi kiện
được tính từ ngày 10-9-1990.
Khi xác định thời hiệu khởi kiện chia di sản thừa kế mà thời điểm mở thừa
kế trước ngày 01-7-1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 01-7-1996 đến
ngày 01-01-1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện đối với trường hợp thừa kế
không có người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia;...
[4] Cụ Chu Sỹ M chết năm 1970, thời hiệu khởi kiện thừa kế đi với bất
động sản được tính từ ngày 10/9/1990 đến ngày 10/9/2020 là 30 năm theo Điều
623 Bộ luật dân sự năm 2015. Trường hợp di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày
01/7/1996 đến ngày 01/01/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện. Do đó, thời
hiệu khởi kiện được cộng thêm 02 năm 06 tháng tính từ ngày 10/9/2020 đến
ngày 10/3/2023 mới hết thời hiệu khởi kiện.
[5] Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Chu Văn T1 cho
rằng, thời điểm cụ M chết có ngôi nhà 03 gian trình tường, đến năm 1987 cụ Đ
cùng các con phá dỡ để xây nhà mới, nên di sản thừa kế là nhà ở không còn,
các đương sự cũng không đề nghị chia di sản thừa kế là ngôi nhà, nên không áp
dụng thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện thừa kế.
Xét thấy: Thời điểm mở thừa kế năm 1970, khi cụ M chết các đương sự
đều xác định tài sản của cụ M, cụ Đ có ngôi nhà 03 gian trình tường, năm 1987
cụ Đ mới phá dỡ để xây nhà như hiện nay. Tại thời điểm khởi kiện chia thừa kế
không còn ngôi nhà do nhà bị tháo dỡ để xây dựng nhà mới, không phải là
không có di sản là nhà ở tại thời điểm mở thừa kế. Trường hợp này phải xác
định có di sản là nhà ở nên thời gian từ ngày 01/7/1996 đến ngày 01/01/1999
không tính vào thời hiệu khởi kiện.
[6] Bên cạnh đó, các đương sự đều thừa nhận ngoài diện tích đất có nguồn
gc là tài sản chung của cụ M, cụ Đ khai phá được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất còn có nhiều thửa đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, gồm: Thửa 189, 190, 191, 192, 200, 201.
Tiểu mục 1.2 mục 1 phần II Nghị quyết s 02/2004/NQ-HĐTP ngày
10/8/2004 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân ti cao hướng dẫn xác
định quyền sử dụng đất là di sản:
1. Xác định quyền sử dụng đất là di sản:
…1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một
trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai
năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không
phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.
[7] Như vậy, đi với diện tích đất do cụ M, cụ Đ khai phá sử dụng ổn định
từ năm 1960 đến nay không có tranh chấp nhưng chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất được xác định là di sản thừa kế và thời hiệu khởi kiện
đi với diện tích đất này là 30 năm được tính từ ngày 01/7/2004.
9
Toà án cấp sơ thẩm áp dụng thời hiệu khởi kiện đi với phần di sản là
quyền sử dụng đất của cụ M, giao và công nhận quyền sử dụng đất cho những
người đang quản lý di sản của cụ M là không có căn cứ.
Về kháng cáo của ông Chu Văn T3 cho rằng thửa đất số 199, 200, 201
được cụ Đ tặng cho không phải là di sản thừa kế, thấy:
[8] Tài liệu có trong hồ sơ và lời khai của các đương sự tại phiên toà đều
xác định, ông Chu Văn T3 được cụ Đ cho thửa đất s 199, 200, 201. Các ông
bà Chu Văn C, Chu Văn T1, Chu Thị H, Chu Thị T đều xác định ông T3 được
cụ Đ cho diện tích đất nêu trên. Ông T3 đã làm đơn xin giãn cư, được UBND
xã T xác nhận, năm 1999, 2013 ông T3 được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đi với thửa đất s 200, 201. Toà án cấp sơ thẩm xác định thửa đất s
199, 200, 201 là di sản thừa kế để phân chia là không có căn cứ.
[9] Về hiện trạng và quá trình sử dụng đất là di sản thừa kế: Tài liệu có
trong hồ sơ và lời khai của các đương sự tại phiên toà thể hiện, quá trình sử
dụng đất ông T1, ông C, ông T3 đã xây dựng công trình trên đất, sử dụng đất
trong nhiều năm. Ông T1 cho rằng diện tích đất ở, đất rừng, đất vườn do được
cụ Đ tặng cho, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2017 khi cụ
Đ còn sng. Toà án cấp sơ thẩm chưa làm rõ quá trình sử dụng đất và tài sản
trên đất của gia đình ông C, ông T1, ông T3 như thế nào. Khi các ông xây dựng
công trình trên đất những người thuộc hàng thừa kế có biết và có ý kiến phản
đi không.
[10] Từ những phân tích nêu trên, để đảm bảo nguyên tắc 02 cấp xét xử và
bảo đảm thực hiện quyền kháng cáo của đương sự, thấy có căn cứ chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn bà Chu Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan bà Chu Thị H, ông Chu Văn T3; huỷ bản án dân sự sơ thẩm s
34/2024/DSST ngày 09/5/2024 của Toà án nhân dân thành ph Thái Nguyên.
Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành ph Thái Nguyên giải quyết lại vụ
án theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
Về án ph:
[11] Án phí phúc thẩm: đương sự kháng cáo được chấp nhận, nên không
phải chịu án phí phúc thẩm, được hoàn trả tạm ứng án phí.
[12] Án phí sơ thẩm và chi phí t tụng sẽ được xem xét và quyết định khi
giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Từ những nhận định nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật t tụng dân sự; chấp nhận kháng cáo
của nguyên đơn bà Chu Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Chu
Thị H, ông Chu Văn T3; huỷ bản án dân sự sơ thẩm s 34/2024/DSST ngày
09/5/2024 của Toà án nhân dân thành ph Thái Nguyên. Giao hồ sơ vụ án cho
Toà án nhân dân thành ph Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên giải quyết lại vụ án
theo thủ tục sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
10
2. Về án phí:
Án phí phúc thẩm: bà Chu Thị H, Chu Thị T, ông Chu Văn T3 không phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm; Hoàn trả ông Chu Văn T3 300.000 đồng tạm ứng
án phí theo biên lai s 0002856 ngày 27/5/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
thành ph Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
Án phí sơ thẩm và chi phí t tụng sẽ được xem xét và quyết định khi giải
quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Thái Nguyên;
- TAND TP. Thái Nguyên;
- Chi cục THADS TP. Thái Nguyên;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
T.M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Hoàng Quý Sửu
Tải về
Bản án số 158/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 158/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 19/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 21/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 07/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 05/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 25/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 22/10/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm