Bản án số 52/2021/DSST ngày 14/05/2021 của TAND Q. Cái Răng, TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
-
Bản án số 52/2021/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 52/2021/DSST
Tên Bản án: | Bản án số 52/2021/DSST ngày 14/05/2021 của TAND Q. Cái Răng, TP. Cần Thơ về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Cái Răng (TAND TP. Cần Thơ) |
Số hiệu: | 52/2021/DSST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/05/2021 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CÁI RĂNG, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 52/2021/DSST NGÀY 14/05/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cái Răng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 257/2020/TLST-DS, ngày 18 tháng 11 năm 2020. Về tranh chấp “Hợp đồng vay tài sản”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2021/QĐXXST, ngày 26 tháng 4 năm 2021. Giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn : Bà TRƢƠNG THỊ N, sinh năm 1975.
Địa chỉ: số 34/17A, T V, KDC P K, P. Hưng Lợi, Q. Ninh Kiều, TP. Cân Thơ. (Có mặt)
2- Bị đơn: - Bà VÕ NGỌC H, sinh năm 1979.
- Ông NGÔ VŨ L, sinh năm 1993.
Địa chỉ: 27/1, KV. T M, P. L B, Q. Cái Răng, TP. Cần Thơ. (Vắng mặt)
3- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : Ông HUỲNH NGỌC D, sinh năm 1969.
Địa chỉ: số 34/17A, T V, KDC P K, P. H L, Q. Ninh Kiều , TP. Cần Thơ .
(Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện ngày 26/10/2020 và Biên bản lấy lời khai ngày 09/4/2021 thì do quen biết nhau nguyên đơn có cho vợ chồng bà Võ Ngọc H và ông Ngô Vũ L vay nhiều lần nhưng không có làm biên nhận. Do bà H và ông L nhiều lần không trả nợ đúng hạn nên ngày 10/3/2019 (AL, tức 14/4/2019) bà có yêu cầu vợ chồng bà H và ông L viết “Giấy vay tiền” với số tiền vay tổng cộng 600.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất và thời hạn trả nhưng có cam kết góp trả 700.000 đồng/ngày. Hai bên cũng có lập Tờ cam kết cùng ngày 14/4/2019. Nhưng từ khi lập cam kết đến nay vợ chồng bà Võ Ngọc H và Ngô Vũ L đã góp được 224.000.000 đồng thì ngưng không đóng nữa. Từ đó đến nay, bà H và ông L không trả vốn và lãi theo thỏa thuận nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bà H và ông L trả số nợ 376.000.000 đồng (Ba trăm bảy mươi sáu triệu đồng).
Quá trình giải quyết vụ kiện, tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn Võ Ngọc H và ông Ngô Vũ L cố tình vắng mặt không đến. Sau khi tiến hành các thủ tục cần thiết, Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử công khai vắng mặt các bị đơn.
Tại phiên tòa hôm nay: Bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt không lý do.
Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu đòi bị đơn có trách nhiệm trả số nợ 376.000.000 đồng (Ba trăm bảy mươi sáu triệu đồng), không yêu câu tinh lãi suất.
Đại diện Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: là phù hợp quy định pháp luật, không phát hiện vi phạm.
- Về việc giải quyết vụ án: Phía nguyên đơn yêu cầu bị đơn có trách nhiệm trả số nợ 376.000.000 đồng (Ba trăm bảy mươi sáu triệu đồng) là có cơ sở. Căn cứ Giấy vay tiền ngày 10/3/2019 (AL) (BL 01) thì các bị đơn có mượn của nguyên đơn 600.000.000 đồng, nguyên đơn trình bày bị đơn đã thanh toán được 224.000.000 đồng. Xác nhận của Công an phường Lê Bình ngày 10/7/2020 thì cả hai bị đơn Võ Ngọc H và Ngô Vũ L hiện vẫn đang sinh sống tại địa chỉ được triệu tập. Bị đơn cố tình vắng mặt nên không thể làm rõ hơn được số tiền đã trả , là lỗi của bị đơn. Nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn trả lại số tiền nêu trên, không yêu câu tinh lãi suất.
Sau khi nghe ý kiến phát biểu của phía nguyên đơn và đại diện Viện kiểm sát.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Việc vay mượn tiền giữa các đương sự được lập bằng văn bản là Giấy vay tiền ngày 10/3/2019 (AL) (BL 01 - bản gốc) thể hiện các bị đơn có vay của nguyên đơn số tiền 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng) nên xem đây là hợp đồng vay tài sản. Bên vay có nghĩa vụ phải trả cho bên cho vay tài sản theo thoả thuận. Giữa hai bên không thực hiện đúng thoả thuận nên xảy ra tranh chấp. Xét đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng vay tài sản được ngành luật dân sự điều chỉnh và thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Tòa án khi các đương sự có yêu cầu theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về số nợ gốc, trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng cả hai bị đơn luôn vắng mặt. Song căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, cụ thể là Giấy vay tiền ngày 10/3/2019 (AL) (bản gốc - BL 01) do hai bị đơn tự ghi số tiền đã nhận là 600.000.000 đồng (Sáu trăm triệu đồng), cam kết sẽ góp trả 700.000 đồng/ngày (bắt đầu từ ngày 10/3/2019 AL) và có chữ ký xác nhận của cả hai bị đơn. Cho nên đủ cơ sở kết luận bà Võ Ngọc H và ông Ngô Vũ L có vay và nợ nguyên đơn số tiền như trên.
Phía bị đơn đã được hưởng quyền sở hữu tài sản vay đầy đủ nhưng lại không chịu thực hiện nghĩa vụ trả nợ, cố tình kéo dài thời gian. Thậm chí Tòa án triệu tập nhiều lần vẫn không đến, thái độ xem thường pháp luật. Theo xác minh của Công an phường Lê Bình ngày 10/7/2020 (BL 27) thì hai bị đơn Võ Ngọc H và Ngô Vũ L hiện vẫn đang sinh sống tại địa phương.
[3] Nguyên đơn trình bày bị đơn đã góp nhiều lần và thanh toán được tổng cộng 224.000.000 đồng. Do các bi đơn cố tình vắng mặt nên khôn g thể làm rõ hơn được số tiền đã trả, đây là lỗi của phía bị đơn. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, buộc các bị đơn có trách nhiệm trả nợ cho nguyên đơn số tiền 376.000.000 đồng (Ba trăm bảy mươi sáu triệu đồng).
[4] Về lãi suất: nguyên đơn không yêu cầu nên không điều chỉnh.
[5] Thời hạn và phương thức trả nợ thuộc thẩm quyền của Chi cục thi hành án dân sự quận Cái Răng nên Hội đồng xét xử không điều chỉnh. Tuy nhiên, kể từ khi nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người có nghĩa vụ chậm trả tiền thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo qui định tại Điều 357 Bộ luật dân sự.
[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: do nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện nên bị đơn phải chịu toàn bộ án phí là 5%(376.000.000 đồng) = 18.800.000 đồng (Mười tám triệu tám trăm ngàn đồng).
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào :
- Điều 26, 35, 39, 147, 227, 228, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
- Điều 463, 466, 468, 470 và Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
- Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện đòi nợ vay của bà Trƣơng Thị N. Buộc bà Võ Ngọc H và ông Ngô Vũ L có nghĩa vụ trả cho bà Trương Thị N số nợ gốc 376.000.000 đồng (Ba trăm bảy mươi sáu triệu đồng) khi án có hiệu lực.
2/ Kể từ khi nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người có nghĩa vụ chậm trả tiền thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo qui định tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.
3/ Bị đơn Võ Ngọc H và ông Ngô Vũ L phải chịu 18.800.000 đồng (Mười tám triệu tám trăm ngàn đồng) án phí dân sự theo giá ngạch.
Nguyên đơn Trƣơng Thị N được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp 9.400.000 đồng (Chín triệu bốn trăm ngàn đồng) theo biên lai số 006452 ngày 27/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Cái Răng.
4/ Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên các đương sự có mặt được quyền kháng cáo và kể từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở UBND P. Lê Bình hoặc từ khi nhận được bản án bà Võ Ngọc H và ông Ngô Vũ L được quyền kháng cáo để xin Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!