Bản án số 51/2025/HC-PT ngày 22/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 51/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 51/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 51/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 51/2025/HC-PT ngày 22/01/2025 của TAND cấp cao tại Hà Nội |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Hà Nội |
Số hiệu: | 51/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Bác kháng cáo của người khởi kiện là ông Nguyễn Văn C. Sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 96/2024/HC-ST ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang cụ thể như sau |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI HÀ NỘI
Bản án số 51/2025/HC-PT
Ngày: 22/01/2025
V/v “Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản
lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Bà Đặng Thị Thơm;
Ông Nguyễn Thế Lệ;
Ông Nguyễn Phan Nam.
- Thư ký phiên tòa: Bà Triệu Hương Thùy, Thư ký Toà án nhân dân cấp
cao tại Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Ông Lê Văn Hùng,
Kiểm sát viên cao cấp tham gia phiên tòa.
Ngày 22 tháng 01 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang,
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa trực tuyến xét xử phúc thẩm
công khai vụ án hành chính thụ lý số 642/2024/TLPT-HC ngày 28 tháng 11 năm
2024 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh
vực quản lý đất đai”;
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 96/2024/HC-ST ngày 04 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 203/2025/QĐ-PT ngày 06 tháng
01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn H,
xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang; (Vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1985; địa chỉ:
Thôn H, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang (Văn bản ủy quyền ngày 20/9/2024); (Có
mặt tại phiên tòa).
- Người bị kiện:
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang.
2. Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang.
2
Người đại diện hợp pháp của Chủ tịch và Ủy ban nhân dân huyện L, tỉnh
Bắc Giang: Ông Giáp Văn Ơ – Phó Chủ tịch (Văn bản ủy quyền số 11526/QĐ-
UBND ngày 12/8/2024); (Có mặt tại phiên tòa).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Chủ tịch và Ủy ban nhân dân
huyện L, tỉnh Bắc Giang: Ông Vũ Công Đ - Phó Trưởng Phòng Tài nguyên và
Môi trường huyện L (Có mặt tại phiên tòa); ông Nguyễn Văn Q - Chuyên viên
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện L (Vắng mặt); ông Trần Văn N - Giám
đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất và Cụm Công nghiệp huyện L (Vắng mặt); ông
Dương Văn K - Phó Giám đốc Trung tâm Phát triển quỹ đất và Cụm Công nghiệp
huyện L (Có mặt tại phiên tòa).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Cục Đ3 - Bộ G; địa chỉ: Ô D20 KĐT mới C, đường T, phường D, quận
C, thành phố Hà Nội.
Người đại diện hợp pháp: Ông Nguyễn Xuân T - Giám đốc Ban Q1 (Quyết
định số 199/QĐ-CĐBVN ngày 25/10/2022); (Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử
vắng mặt).
2. Bà Phan Thị Hải Đ1, sinh năm 1980; (Vắng mặt).
3. Cụ Nguyễn Văn T1, sinh năm 1958; (Vắng mặt).
4. Cụ Nguyễn Thị H, sinh năm 1963; (Vắng mặt).
Bà Đ1, cụ T1, cụ H cùng địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Đ1, cụ T1, cụ H: Ông Nguyễn Văn
Q, sinh năm 1985 (Văn bản ủy quyền ngày 20/9/2024); (Có mặt tại phiên tòa).
5. Ủy ban nhân dân xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Văn Đ2 - Chủ tịch; (Vắng mặt).
- Người kháng cáo: Người khởi kiện là ông Nguyễn Văn C.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 21/6/2024, đơn khởi kiện bổ sung và quá trình
giải quyết vụ án, người khởi kiện là ông Nguyễn Văn C trình bày:
Gia đình ông C sử dụng thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19 tại thôn H, xã C,
huyện L, tỉnh Bắc Giang thuộc một phần thửa đất đã được UBND huyện L cấp
GCNQSDĐ lần đầu có nguồn gốc do cụ Nguyễn Văn T1 (là bố ông C) tự khai
phá sử dụng làm nhà ở trước năm 1960.
Ngày 17/8/2001, Ủy ban nhân dân huyện L (viết tắt là UBND) cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCNQSDĐ) lần đầu đối với thửa đất
có nguồn gốc tự khai phá sử dụng làm nhà ở trước năm 1960 đứng tên hộ cụ
Nguyễn Văn T1.
Ngày 05/12/2006, thửa đất trên được cấp đổi GCNQSDĐ số hiệu
AI734331. Ngày 05/11/2015, cụ Nguyễn Văn T1, cụ Nguyễn Thị Hồng T2 thửa
3
đất trên thành các thửa khác nhau và được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số
CA621594 đối với thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, diện tích 150m
2
trong đó có
70m
2
đất ở và 80m
2
đất vườn.
Ngày 16/12/2022, cụ T1 và cụ H tặng cho ông C thửa đất số 425, có xác
nhận của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L. Gia đình ông C đã quản
lý, sử dụng thửa đất ổn định, liên tục, không tranh chấp và thực hiện đầy đủ nghĩa
vụ tài chính với Nhà nước.
Năm 2022, UBND huyện L thu hồi 14m
2
đất để bàn giao cho đơn vị thi
công thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ C đoạn từ Km2+400– Km44+900
tỉnh Bắc Giang (viết tắt là Dự án) mà không có văn bản thu hồi đất.
Ngày 01/10/2023, ông C có Đơn khiếu nại đến UBND huyện L về hành vi
thu hồi đất mà không ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.
Ngày 28/7/2023, Chủ tịch UBND huyện L có Kết luận Thanh tra số
1528/KL-UBND về việc cấp GCNQSDĐ ở đối với 126 trường hợp bám trục Quốc
lộ C tại xã C và thị trấn P.
Ngày 27/5/2024, Chủ tịch UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết
định số 2384/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn
C (viết tắt là Quyết định số 2384/QĐ).
Không đồng ý với Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND
huyện L, ông Nguyễn Văn C khởi kiện yêu cầu Tòa án:
1. Hủy toàn bộ nội dung Quyết định số 2384/QĐ của Chủ tịch UBND huyện
L, tỉnh Bắc Giang.
2. Buộc UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang phải ban hành quyết định thu hồi
đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong quá
trình thực hiện Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ C cho hộ ông Nguyễn Văn C khi
thu hồi diện tích 14m
2
đất ở tại thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19 tại thôn H, xã C,
huyện L, tỉnh Bắc Giang và tài sản trên đất gồm 14m
2
sân bê tông gạch theo đúng
quy định pháp luật.
3. Yêu cầu xem xét các văn bản hành chính liên quan, gồm: Chỉ thị số 13/CT-
UB ngày 11/8/1983 của UBND tỉnh H (nay là tỉnh Bắc Giang); Quyết định cấp
GCNQSDĐ vào năm 2001, cấp đổi năm 2006, năm 2015 cho hộ cụ Nguyễn Văn
T1 và ông Nguyễn Văn C; Quyết định số 608/QĐ-UBND về việc hủy bỏ Quyết
định số 57/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày
19/01/2023 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ để thực hiện Dự án.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Nguyễn Văn Q (đại diện cho ông C) trình bày:
Ông C không yêu cầu xem xét các văn bản hành chính liên quan, gồm: Chỉ thị số
13/CT-UB ngày 11/8/1983 của UBND tỉnh H (nay là tỉnh Bắc Giang); Quyết định
cấp GCNQSDĐ vào năm 2001, cấp đổi năm 2006, năm 2015 cho hộ cụ Nguyễn
Văn T1 và ông Nguyễn Văn C; Quyết định số 608/QĐ-UBND về việc hủy bỏ Quyết
định số 57/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày
4
19/01/2023 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ để thực hiện Dự án.
Tại Quyết định số 1656/QĐ-UBND ngày 15/12/2022 của UBND huyện L
về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án (viết tắt là Quyết định số 1656/QĐ) và
Quyết định số 1657/QĐ-UBND ngày 15/12/2022 của UBND huyện L về việc phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án
(viết tắt là Quyết định số 1657/QĐ) không có tên của ông C do các quyết định
nêu trên được ban hành trước thời điểm ông C được cụ Nguyễn Văn T1, cụ
Nguyễn Thị Hồng T3 cho thửa đất. Quyết định số 1656/QĐ và Quyết định số
1657/QĐ chỉ thể hiện 04 thửa đất của bà Nguyễn Thị H1, bà Nguyễn Thị H2 và
ông Nguyễn Văn Q. Tuy nhiên, thông báo thu hồi đất ông C nhận được là 05 thửa
nên ông C mới biết được diện tích đất của ông C bị thu hồi là 14m
2
, trên phần
diện tích đất thu hồi có sân lát xi măng và gạch vỡ, ngoài ra không có tài sản khác.
Ông Q đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C về
việc hủy toàn bộ nội dung Quyết định số 2384/QĐ của Chủ tịch UBND huyện L
và buộc UBND huyện L phải ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trong quá trình thực hiện Dự
án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ C cho hộ ông Nguyễn Văn C khi thu hồi diện tích
14m
2
đất ở tại thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19 và tài sản trên đất gồm 14m
2
sân
bê tông gạch nêu trên.
Người bị kiện là Chủ tịch và UBND huyện L (do ông Giáp Văn Ơ đại diện)
trình bày:
Ngày 19/01/2023, UBND huyện L ban hành Quyết định số 57/QĐ-UBND về
việc thu hồi đất để thực hiện Dự án; Quyết định số 58/QĐ-UBND về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án. Sau khi
phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ, có một số công dân trên địa bàn xã C và thị
trấn P phản ánh về việc “Các thửa đất có cùng nguồn gốc nhưng khi cấp GCNQSD
đất ở có thửa trừ hành lang giao thông, có thửa không trừ dẫn đến việc các thửa
không trừ hành lang giao thông được bồi thường là không công bằng”.
Ngày 31/01/2023, UBND huyện L có Thông báo số 12/TB- UBND về việc
tạm dừng chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (đợt 2) để thực
hiện Dự án, thời hạn chi trả tiền lần sau sẽ được tính kể từ ngày UBND huyện L
có thông báo mới.
Ngày 07/6/2023, Chủ tịch UBND huyện L ban hành Quyết định số
3034/QĐ-UBND thanh tra việc cấp GCNQSDĐ ở đối với 126 trường hợp bám
trục Quốc lộ C tại xã C và thị trấn P.
Ngày 28/7/2023, Chủ tịch UBND huyện L có Kết luận Thanh tra số
1528/KL-UBND về việc cấp GCNQSDĐ ở đối với 126 trường hợp bám trục Quốc
lộ C tại xã C và thị trấn P.
Ngày 14/8/2023, UBND huyện L tổ chức hội nghị thông báo Kết luận
Thanh tra để thông báo tới các hộ dân về việc cấp GCNQSDĐ ở năm 2000 và
năm 2006 chưa trừ đất hành lang giao thông là chưa đúng quy định pháp luật.
Ngày 07/8/2023, UBND huyện L ban hành Quyết định số 604/QĐ-UBND
5
về việc điều chỉnh diện tích thu hồi đất tại Quyết định số 1656/QĐ; Quyết định
số 605/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Phương án bồi thường hỗ trợ tại Quyết định
số 1657/QĐ. Trong đó, diện tích đất thu hồi và tài sản trên diện tích đất bị thu hồi
của hộ ông Nguyễn Văn C được xác định là đất nằm trong hành lang giao thông
Quốc lộ 31 nên không đủ điều kiện được bồi thường, hỗ trợ. Sau khi công khai
các Quyết định điều chỉnh thu hồi đất và Quyết định phê duyệt phương án bồi
thường, UBND huyện L đã bàn giao mặt bằng cho thi công Dự án. Không đồng
ý với nội dung trên, ngày 01/10/2023, ông Nguyễn Văn C có đơn khiếu nại đến
Chủ tịch UBND huyện L.
Ngày 27/5/2024, Chủ tịch UBND huyện L ban hành Quyết định số
2384/QĐ về việc giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn C (lần đầu) là đúng
quy định pháp luật; đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của ông
Nguyễn Văn C.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị kiện trình bày: Tại thông báo thu hồi đất thể hiện diện tích đất thu hồi của gia
đình cụ T1, cụ H đối với 05 thửa đất. Ngày 26/12/2022, cụ Nguyễn Văn T1 và cụ
Nguyễn Thị H làm thủ tục tặng cho ông Nguyễn Văn C và bà Phan Thị Hải Đ1
thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, diện tích 150m
2
tại thôn H, xã C, huyện L, được
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L chỉnh lý tại trang 4 GCNQSDĐ
số vào sổ CH03370, số phát hành CA621594. Khi làm hồ sơ kê khai, ông C, bà
Đường K1 kê khai diện tích đất bị thu hồi và tài sản trên đất đối với thửa đất trên
nên tại Quyết định số 1656/QĐ và Quyết định số 1657/QĐ chỉ thể hiện 04 thửa
đất của hộ cụ T1: Theo số thứ tự 38 là thửa đất của bà Nguyễn Thị H1; thứ tự 39,
ghi tên Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn Q là thửa tặng cho bà Nguyễn Thị H2; thứ
tự 40 là hai thửa tặng cho ông Nguyễn Văn Q. Đối với diện tích đất 14m
2
có trong
thông báo thu hồi, UBND huyện L xác định là đất hành lang giao thông, do đó
UBND huyện L không ban hành quyết định thu hồi và quyết định bồi thường; đề
nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C và xem xét
tính hợp pháp của GCNQSDĐ đã cấp cho cụ T1, cụ H.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm:
- Cục Đ3 Bộ G (do ông Nguyễn Xuân T đại diện) trình bày:
Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ C đoạn Km2+400 - Km44+900, tỉnh Bắc
Giang được Bộ trưởng Bộ G phê duyệt chủ trương đầu tư tại Quyết định số
1561/QĐ-BGTVT ngày 23/8/2021, phê duyệt điều chỉnh chủ trương đầu tư tại
Quyết định số 301/QĐ-BGTVT ngày 11/3/2022. Thực hiện phân cấp đầu tư của
Bộ G, T4 (nay là Cục Đ3) đã phê duyệt đầu tư dự án tại Quyết định số 1593/QĐ-
TCĐBVN ngày 16/3/2022, trong đó:
+ Tổng chiều dài dự án khoảng 39,1km (không bao gồm đoạn qua khu vực
thị trấn C đã bảo đảm quy mô), điểm đầu tại nút giao với Quốc lộ A (Km2+400
lý trình Quốc lộ C), thành phố B, tỉnh Bắc Giang; điểm cuối tại nút giao với
ĐT.290 (Km44+900 lý trình Quốc lộ C), huyện L, tỉnh Bắc Giang. Dự án đi qua
các địa bàn thành phố B, huyện L, huyện L, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
6
+ Chủ đầu tư: Cục Đ3.
+ Đơn vị quản lý dự án: Ban Quản lý dự án 3 – Cục Đ3.
+ Công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (công tác GPMB) được tách
thành tiểu dự án riêng do UBND tỉnh B tổ chức thực hiện. UBND tỉnh B giao
UBND thành phố B và UBND các huyện L, huyện L, huyện L làm chủ đầu tư
công tác GPMB trên địa bàn quản lý. Do đó, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy
định pháp luật.
- UBND xã C (do ông Hoàng Văn Đ2 đại diện) trình bày: Nhất trí với trình
bày của UBND huyện L.
- Cụ Nguyễn Văn T1, cụ Nguyễn Thị H trình bày: Nhất trí với yêu cầu khởi
kiện của người khởi kiện là ông Nguyễn Văn C.
- Bà Phan Thị Hải Đ1 trình bày: Bà nhất trí với trình bày của người khởi
kiện và người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện. Cụ T1, cụ Hồng T3
cho vợ chồng bà thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, diện tích 150m
2
tại thôn H, xã
C, huyện L, tỉnh Bắc Giang, hiện thửa đất chưa có công trình xây dựng trên đất.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 96/2024/HC-ST ngày 04 tháng 10 năm
2024 và tại Quyết định sửa chữa, bổ sung bản án sơ thẩm số 02/2024/QĐ-
SCBSBA ngày 11/10/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang quyết định:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều
191, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 204, Điều 205, Điều 206 và khoản 1 Điều
348 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 75, khoản 2 Điều 82, Điều 157 và
điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013; Điều 18, Điều 21, Điều 29,
Điều 30, Điều 31 Luật Khiếu nại năm 2011; khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về án phí và lệ phí Tòa án; Xử:
1. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C về việc:
- Tuyên hủy toàn bộ nội dung Quyết định hành chính số 2384/QĐ-UBND
ngày 27/5/2024 của Chủ tịch UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang về việc giải quyết đơn
khiếu nại của ông Nguyễn Văn C trú tại thôn H, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
- Buộc UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang phải ban hành Quyết định thu hồi
đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho gia
đình ông đối với diện tích 14m
2
đất ở tại thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, tại thôn
H, xã C và tài sản trên đất là sân bê tông theo đúng quy định pháp luật.
2. Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ CH03370, số phát
hành CA621594, được Ủy ban nhân dân huyện L cấp ngày 05/11/2015, đối với
thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, diện tích 150m
2
, tên người sử dụng cụ Nguyễn
Văn T1 và cụ Nguyễn Thị H, ngày 26/12/2022 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất
đai huyện L xác nhận tặng cho ông Nguyễn Văn C, bà Phan Thị Hải Đ1, địa chỉ
thửa đất thôn H, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và thông báo quyền
7
kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 09/10/2024, người khởi kiện là ông Nguyễn Văn C có đơn kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bên đương sự không xuất trình tài liệu, chứng
cứ mới. Người đại diện của người khởi kiện giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và nội
dung kháng cáo. Người bị kiện đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không
chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Văn C, giữ nguyên quyết định của bản án
hành chính sơ thẩm.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký và những người tham gia tố tụng đã tuân
thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng hành chính. Kháng cáo của ông Nguyễn
Văn C trong thời hạn luật định và hợp lệ, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung: Kháng cáo của ông Nguyễn Văn C là không có cơ sở, đề nghị
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm áp dụng Điều 241 Luật Tố tụng hành chính, bác
kháng cáo của ông C; giữ nguyên quyết định của bản án hành chính sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ đã
được thẩm tra công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về thủ tục kháng cáo: Ngày 09/10/2024, Tòa án cấp sơ thẩm nhận
đơn kháng cáo ông Nguyễn Văn C kháng cáo toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm
số 96/2024/HC-ST ngày 04 tháng 10 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc
Giang; ông C đã đóng tạm ứng án phí hành chính phúc thẩm. Căn cứ Điều 209
Luật Tố tụng hành chính, kháng cáo của ông C được xem xét theo quy định của
pháp luật.
[1.2] Về sự có mặt của đương sự: Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện
là ông Nguyễn Văn C vắng mặt nhưng có mặt người đại diện hợp pháp là ông
Nguyễn Văn Q; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (Cục Đ3 – Bộ G) và
UBND xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang vắng mặt. Xét các đương sự đã được triệu
tập hợp lệ và phiên tòa mở lần hai, căn cứ Điều 157 Luật Tố tụng hành chính, Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[1.3] Về thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án: Ông Nguyễn Văn C khởi kiện
đề nghị Tòa án hủy Quyết định số 2384/QĐ của Chủ tịch UBND huyện L về việc
giải quyết khiếu nại và buộc UBND huyện L ban hành quyết định thu hồi đất,
quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho gia đình
ông C đối với diện tích 14m
2
đất ở tại thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, tại thôn
H, xã C và tài sản trên đất là sân bê tông là khởi kiện quyết định hành chính, hành
vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Tố tụng hành chính nên Toà án nhân dân
8
tỉnh Bắc Giang thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại
khoản 4 Điều 32 Luật Tố tụng hành chính.
[1.4] Về thời hiệu khởi kiện vụ án: Ngày 27/5/2024, Chủ tịch UBND huyện
L, tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết định số 2384/QĐ, không đồng ý với quyết định
giải quyết khiếu trên, ngày 21/6/2024, ông C làm đơn khởi kiện ra Toà án yêu cầu
xem xét, giải quyết. Như vậy, việc khởi kiện của ông C được thực hiện trong thời
hiệu khởi kiện quy định tại điểm a khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn C:
[2.1] Xét tính hợp pháp của Quyết định số 2384/QĐ của Chủ tịch UBND
huyện L, tỉnh Bắc Giang.
[2.1.1] Về thẩm quyền và trình tự, thủ tục ban hành:
Ngày 19/01/2023, UBND huyện L ban hành Quyết định số 57/QĐ-UBND
về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án; Quyết định số 58/QĐ-UBND về việc phê
duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án.
Ngày 31/01/2023, UBND huyện L có Thông báo số 12/TB- UBND về việc
tạm dừng chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất (đợt 2), thời hạn
chi trả tiền lần sau sẽ được tính kể từ ngày UBND huyện L có thông báo mới.
Ngày 07/6/2023, Chủ tịch UBND huyện L ban hành Quyết định số
3034/QĐ-UBND thanh tra việc cấp GCNQSDĐ ở đối với 126 trường hợp bám
trục Quốc lộ C tại xã C và thị trấn P.
Ngày 28/7/2023, Chủ tịch UBND huyện L có Kết luận Thanh tra số
1528/KL-UBND về việc cấp GCNQSDĐ ở đối với 126 trường hợp bám trục Quốc
lộ C tại xã C và thị trấn P.
Ngày 14/8/2023, UBND huyện L tổ chức hội nghị thông báo Kết luận
Thanh tra để thông báo tới các hộ dân về việc cấp GCNQSDĐ ở năm 2000 và
năm 2006 chưa trừ đất hành lang giao thông là chưa đúng quy định pháp luật.
Ngày 07/8/2023, UBND huyện L ban hành Quyết định số 604/QĐ-UBND
về việc điều chỉnh diện tích thu hồi đất tại Quyết định số 1656/QĐ; Quyết định
số 605/QĐ-UBND về việc điều chỉnh Phương án bồi thường hỗ trợ tại Quyết định
số 1657/QĐ. Trong đó, diện tích đất thu hồi và tài sản trên diện tích đất bị thu hồi
của hộ ông Nguyễn Văn C được xác định là đất nằm trong hành lang giao thông
Quốc lộ 31 nên không đủ điều kiện được bồi thường, hỗ trợ.
Không đồng ý với nội dung trên, ngày 01/10/2023, ông Nguyễn Văn C có
đơn khiếu nại đến Chủ tịch UBND huyện L. Ngày 27/5/2024, Chủ tịch UBND
huyện L ban hành Quyết định số 2384/QĐ về việc giải quyết khiếu nại của ông
Nguyễn Văn C (lần đầu).
Việc Chủ tịch UBND huyện L ban hành Quyết định giải quyết khiếu nại
đối với đơn của ông Nguyễn Văn C là đảm bảo đúng thẩm quyền và trình tự, thủ
tục theo quy định tại khoản 1 Điều 18, Điều 29, Điều 30 Luật Khiếu nại năm 2011.
Tuy nhiên, ngày 27/5/2024, Chủ tịch UBND huyện L mới ban hành quyết định
9
giải quyết khiếu nại của ông C là quá thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu quy
định tại Điều 28 Luật Khiếu nại năm 2011; UBND huyện L cần rút kinh nghiệm
trong việc giải quyết đơn khiếu nại.
[2.1.2] Về nội dung:
Nguồn gốc thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, diện tích 150m
2
tại thôn H, xã
C, huyện L, tỉnh Bắc Giang của hộ gia đình ông C thuộc một phần thửa đất (diện
tích 1.159m
2
) đã được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ lần đầu ngày 17/8/2001
cho hộ gia đình cụ Nguyễn Văn T1 do cụ Nguyễn Văn T1 tự khai phá, sử dụng
làm nhà ở trước năm 1993. Trước năm 2001, thửa đất trên không có giấy tờ chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/12/2006, thửa đất trên được cấp đổi Giấy chứng nhận số hiệu
AI734331, diện tích là 1.516,1m
2
. Tại đơn xin cấp GCNQSDĐ đề ngày
18/4/2006, tại mục 4 cụ H (vợ cụ T1) kê khai 397,2m
2
HL, nhưng khi cấp
GCNQSDĐ năm 2006, đã cấp cả phần diện tích đất hành lang giao thông.
Ngày 05/11/2015, cụ Nguyễn Văn T1, cụ Nguyễn Thị Hồng T2 thửa đất
trên thành các thửa khác nhau; thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, diện tích 150m
2
(gồm 70m
2
đất ở và 80m
2
đất vườn), trong đó có 74m2 đất CLN nằm trong hành
lang giao thông được UBND huyện L cấp GCNQSDĐ số CA621594, cụ T1 và
cụ H tặng cho ông C có xác nhận Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L
ngày 16/12/2022.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 203/HĐBT ngày
21/12/1982 của Hội đồng Bộ trưởng và tại khoản 1 Mục II Chỉ thị số 13/CT-UB
ngày 11/8/1983 của UBND tỉnh H quy định: Hành lang bảo vệ công trình giao
thông đường bộ là 20m từ mép chân mái đường đắp, từ mép đỉnh mái đường đào
hoặc từ mép ngoài rãnh dọc hay rãnh đỉnh của đường trở ra hai bên. Như vậy,
theo quy định trên thì phần hành lang bảo vệ hai bên đường - tuyến Quốc lộ C đã
được quy định từ năm 1982 trước khi thửa đất được UBND huyện L cấp
GCNQSDĐ lần đầu năm 2001, cấp đổi năm 2006.
Tại tiết 1 phần II mục B Thông tư số 85/TT/PC ngày 26/9/21983 Bộ G
hướng dẫn thi hành điều lệ bảo vệ đường bộ quy định: Việc bồi thường các công
trình, nhà cửa nếu có phải dỡ bỏ (toàn bộ hoặc một phần) chỉ giải quyết cho các
trường hợp có giấy phép của cơ quan có thẩm quyền cấp trước đây và đúng theo
quy định của Nhà nước về quản lý đất đai”…
Do đó, diện tích đất ông C khiếu nại là đất hành lang giao thông, không đủ
điều kiện được bồi thường nên không có căn cứ để chấp nhận khiếu nại của ông
C. Như vậy, Chủ tịch UBND huyện L ban hành Quyết định số 2384/QĐ về việc
giải quyết khiếu nại của ông Nguyễn Văn C (lần đầu) mặc dù có vi phạm về thời
hạn giải quyết khiếu nại nhưng đã đảm bảo về thẩm quyền, về trình tự, thủ tục, về
nội dung và hình thức nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của ông Nguyễn Văn C đề nghị hủy toàn bộ nội dung Quyết định số 2384/QĐ của
Chủ tịch UBND huyện L là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 31 Luật Khiếu
nại năm 2011.
10
[2.2] Xét yêu cầu buộc UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang phải ban hành quyết
định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư cho hộ gia đình ông Nguyễn Văn C:
Như đã phân tích ở đoạn [2.1.2], xét thấy UBND huyện L thu hồi 14m
2
đất
tại thửa số 425, tờ bản đồ số 19, địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang
để thực hiện Dự án là đất hành lang giao thông và diện tích phần đất này đã được
cắm mốc đất hành lang giao thông nên việc cấp GCNQSDĐ năm 2015 cấp cả
phần đất hành lang giao thông là không đúng quy định nên UBND huyện L không
ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư cho gia đình ông C là không trái quy định của pháp luật.
Ngày 15/12/2022, UBND huyện L ban hành Quyết định số 1656/QĐ và
Quyết định số 1657/QĐ. Việc tặng cho thửa đất giữa cụ T1, cụ H và ông C sau
khi UBND huyện L ban hành Quyết định thu hồi đất và Quyết định phê duyệt
Phương án bồi thường, hỗ trợ. Do đó, diện tích đất 14m
2
của hộ gia đình ông C bị
thu hồi đối với thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, diện tích 150m
2
tại thôn H, xã C,
huyện L, tỉnh Bắc Giang là đất hành lang giao thông, không đủ điều kiện được
bồi thường theo quy định tại khoản 1 Điều 75; khoản 2, khoản 4 Điều 82 Luật Đất
đai năm 2013. Tài sản của ông C tạo lập trên đất hành lang giao thông trái quy
định pháp luật, sau thời điểm UBND huyện L ban hành Quyết định số 1656/QĐ
nên ông C không được bồi thường đối với tài sản trên đất là 14m
2
sân bê tông theo
quy định tại khoản 2 Điều 92 Luật Đất đai năm 2013. UBND huyện L không ban
hành quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư cho hộ ông Nguyễn Văn C đối với diện tích 14m
2
đất ở và tài
sản trên đất là phù hợp với quy định tại Điều 62, Điều 63, Điều 74, Điều 75, Điều
88, Điều 157 Luật Đất đai năm 2013. Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu khởi kiện của người khởi kiện buộc UBND huyện L phải ban hành quyết định
thu hồi đất, quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư đối
với diện tích 14m
2
đất ở và tài sản trên đất cho hộ ông Nguyễn Văn C để thực hiện
Dự án là có cơ sở.
[2.3] Tại cấp sơ thẩm, người khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án hủy Quyết định
số 2384/QĐ về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Văn C và buộc
UBND huyện L ban hành Quyết định thu hồi đất, Quyết định phê duyệt phương
án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi thu hồi diện tích 14m
2
đất ở và tài sản trên
đất là 14m
2
sân bê tông gạch để thực hiện Dự án; người đại diện ủy quyền của
người khởi kiện rút yêu cầu đề nghị Tòa án xem xét các quyết định hành chính
liên quan trong đó có rút yêu cầu xem xét tính hợp pháp của GCNQSDĐ được
UBND huyện L cấp lần đầu năm 2001, cấp đổi năm 2006, năm 2015 cho hộ cụ
Nguyễn Văn T1 và ông Nguyễn Văn C. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ Điều
143, Điều 165, Điều 173 Luật Tố tụng hành chính để đình chỉ đối với phần yêu
cầu mà người khởi kiện đã rút.
Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện hợp pháp của người bị kiện vắng mặt
và có đơn xin xét xử vắng mặt; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị kiện đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tính hợp pháp của GCNQSDĐ đã cấp
11
cho cụ T1, cụ H; Tòa án cấp sơ thẩm quyết định huỷ Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số vào sổ CH03370, số phát hành CA621594, được Ủy ban nhân dân
huyện L cấp ngày 05/11/2015, đối với thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, diện tích
150m
2
, tên người sử dụng cụ Nguyễn Văn T1 và cụ Nguyễn Thị H, ngày
26/12/2022 Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện L xác nhận tặng cho ông
Nguyễn Văn C, bà Phan Thị Hải Đ1, địa chỉ thửa đất tại thôn H, xã C, huyện L,
tỉnh Bắc Giang trong khi người khởi kiện đã rút yêu cầu này và đây không là yêu
cầu của người bị kiện. Tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử đã làm rõ ý kiến
nêu trên là ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện,
không phải là ý kiến của người bị kiện nên Hội đồng xét xử sẽ sửa án sơ thẩm về
phần này.
[3] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Văn C không xuất trình được tài
liệu, chứng cứ mới nên không có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo
của ông Nguyễn Văn C về việc sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông C.
[4] Về án phí: Kháng cáo của ông Nguyễn Văn C không được chấp nhận
nên ông C phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của Bản án hành chính sơ thẩm không có kháng
cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 241 Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án
phí, lệ phí Tòa án:
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện là ông Nguyễn Văn C.
Sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 96/2024/HC-ST ngày 04 tháng 10 năm
2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang cụ thể như sau:
Căn cứ khoản 1 Điều 30, khoản 4 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116, Điều
143, Điều 165, Điều 173, Điều 191, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 204, Điều
205, Điều 206 và khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 75,
khoản 2 Điều 82, Điều 157 và điểm d khoản 2 Điều 106 Luật Đất đai năm 2013;
Điều 18, Điều 21, Điều 29, Điều 30, Điều 31 Luật Khiếu nại năm 2011; khoản 1
Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Xử:
1.1. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C về việc xem xét
tính hợp pháp của các văn bản hành chính liên quan, gồm:
Chỉ thị số 13/CT-UB ngày 11/8/1983 của UBND tỉnh H (nay là tỉnh Bắc
Giang); Quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2001, Quyết
định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp đổi năm 2006, Quyết định cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất năm 2015 cho hộ cụ Nguyễn Văn T1 và ông

12
Nguyễn Văn C; Quyết định số 608/QĐ-UBND về việc hủy bỏ Quyết định số
57/QĐ-UBND về việc thu hồi đất và Quyết định số 58/QĐ-UBND ngày
19/01/2023 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ để thực hiện Dự án
cải tạo, nâng cấp Quốc lộ C đoạn từ Km2+400 – Km44+900 tỉnh Bắc Giang của
UBND huyện L.
1.2. Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn C về việc:
- Tuyên hủy toàn bộ nội dung Quyết định hành chính số 2384/QĐ-UBND
ngày 27/5/2024 của Chủ tịch UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang về việc giải quyết đơn
khiếu nại của ông Nguyễn Văn C trú tại thôn H, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.
- Buộc UBND huyện L, tỉnh Bắc Giang phải ban hành Quyết định thu hồi
đất, Quyết định phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho gia
đình ông đối với diện tích 14m
2
đất ở tại thửa đất số 425, tờ bản đồ số 19, tại thôn
H, xã C và tài sản trên đất là sân bê tông theo đúng quy định pháp luật.
1.3. Về án phí sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn C phải chịu 300.000 đồng án phí
hành chính sơ thẩm, được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp tại
Biên lai số 0001427 ngày 30/7/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.
2. Về án phí phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn C phải chịu 300.000 đồng án phí
hành chính phúc thẩm; được đối trừ vào số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp tại
Biên lai số 0000141 ngày 22/10/2024 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Giang.
Xác nhận ông Nguyễn Văn C đã thi hành xong án phí hành chính sơ thẩm
và án phí hành chính phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án hành chính sơ thẩm không có kháng
cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo,
kháng nghị.
4. Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- TAND tỉnh Bắc Giang;
- VKSND tỉnh Bắc Giang;
- Cục THADS tỉnh Bắc Giang;
- Các đương sự (theo địa chỉ);
- Lưu HS, P.HCTP.TANDCC Hà Nội.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Đặng Thị Thơm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm