Bản án số 138/2025/HC-PT ngày 25/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 138/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 138/2025/HC-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 138/2025/HC-PT
Tên Bản án: | Bản án số 138/2025/HC-PT ngày 25/02/2025 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 138/2025/HC-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/02/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 138/2025/HC-PT
Ngày: 25-02-2025
V/v:“Kiện quyết định hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Cường
Các Thẩm phán: Ông Lê Văn Thường
Bà Võ Thị Ngọc Dung
- Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thị Nhị Tứ - Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
cấp cao tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: Ông Nguyễn Nam Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 02 năm 2025, tại điểm cầu trung tâm, trụ sở Toà án nhân
dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần, tiến hành xét xử phúc thẩm
trực tuyến công khai vụ án hành chính thụ lý số 304/2024/TLPT-HC ngày 01
tháng 10 năm 2024 về “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý
đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 31/2024/HC-ST ngày 05/8/2024 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Định bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 330/2025/QĐ-PT ngày
17 tháng 01 năm 2025, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Trương Hắc H; cư trú tại tổ D, khu phố F, phường
N, thành phố Q, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trần Bá N; địa chỉ: Tổ F, khu phố A,
phường D, thành phố P, tỉnh Kiên Giang, có mặt. (Theo hợp đồng uỷ quyền, do
Văn phòng C, thành phố Q, tỉnh Bình Định công chứng ngày 24/02/2025).
- Người bị kiện.
1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B;
2
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Tuấn T - Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B, có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định; vắng mặt.
3. Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Nguyễn Đức T1 - Phó
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Q; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ban Q đất thành phố Q, tỉnh Bình Định.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông
Phan Khắc D - Phó Giám đốc Ban Q đất thành phố Q, có đơn xin xét xử vắng
mặt.
2. Ủy ban nhân dân phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông
Đỗ Xuân N1 - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường N; có đơn xin xét xử vắng mặt
vắng mặt.
3. Bà Trương Thị Bích N2; cư trú tại: Tổ A, khu phố C, phường Đ, thành
phố Q, tỉnh Bình Định, vắng.
4. Bà Trương Thị N2; cư trú tại: Số E đường N, thành phố Q, tỉnh Bình
Định vắng.
5. Bà Trương Thị Hồng T2; cư trú tại: Tổ D, khu phố F, phường N thành
phố Q, tỉnh Bình Định, vắng.
6. Bà Trương Thị Tuyết N3; cư trú tại: Tổ D, khu phố F, phường N, thành
phố Q, tỉnh Bình Định, vắng.
7. Chị Trương Thị Hồng V; cư trú tại: Tổ D, khu phố F, phường N, thành
phố Q, tỉnh Bình Định, vắng.
8. Anh Trương Công B; cư trú tại: Tổ D, khu phố F, phường N, thành phố
Q, tỉnh Bình Định, vắng.
9. Cháu Trương Thiên V1, sinh năm 2019; cư trú tại: Tổ D, khu phố F,
phường N, thành phố Q, tỉnh Bình Định, vắng.
Các đương sự: Trương Thị Hồng T2, Trương Thị Tuyết N3, Trương Thị
N2, Trương Thị Bích N2 uỷ quyền cho ông Trương Hăc H1 (Theo hợp đồng uỷ
quyền do Văn phòng C, thành phố Q, tỉnh Bình Định công chứng ngày
21/7/2023).
- Người kháng cáo: người khởi kiện ông Trương Hắc H.
3
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo, người khởi kiện ông Trương
Hắc H trình bày:
[1]. Ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:
- Huỷ Quyết định số 3852/QĐ-UBND ngày 02/6/2021 của Ủy ban nhân
dân thành phố Q (viết tắt là Quyết định số 3852).
- Huỷ một phần Quyết định số 3848/QĐ-UBND ngày 02/6/2021 của Ủy
ban nhân dân thành phố Q (viết tắt là Quyết định số 3848) về việc phê duyệt
phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng kỹ
thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2 - đợt 4) đối với hộ bà
Lê Thị M (chết), con là ông Trương Hắc H.
- Huỷ Quyết định số 10111/QĐ-UBND ngày 06/12/2021 của Ủy ban nhân
dân thành phố Q (viết tắt là Quyết định số 10111).
- Huỷ Quyết định số 10723/QĐ-UBND ngày 21/12/2021 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố Q (viết tắt là Quyết định số 10723).
- Huỷ Quyết định số 4678/QĐ-UBND ngày 18/12/2023 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh B (viết tắt là Quyết định số 4678).
- Huỷ Quyết định số 2150/QĐ-UBND ngày 08/4/2022 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố Q (viết tắt là Quyết định số 2150).
- Buộc Ủy ban nhân dân thành phố Q phê duyệt bổ sung phương án bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư
K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2 – đợt 4) đối với hộ bà Lê Thị M (chết),
con là ông Trương Hắc H như sau:
Về đất: Yêu cầu bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích thực tế là 1.000m
2
.
Về tái định cư: Đề nghị giao lại cho ông phần đất còn lại sau khi trừ đi
diện tích đất bị ảnh hưởng do làm đường, vỉa hè (nếu có).
[2] Theo Quyết định số 3852, gia đình ông bị thu hồi phần đất có diện tích
711,5m
2
thuộc toàn phần thửa đất số 259, tờ bản đồ số 43 tại tổ D, khu phố F,
phường N, thành phố Q (viết tắt là thửa đất số 259) để thực hiện Dự án công trình
hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (đợt 4 giai đoạn 2).
Nguồn gốc thửa đất trên do ông bà ông tạo lập trước năm 1975 để lại cho
cha mẹ ông; được chế độ cũ cấp Trích lục địa bộ năm 1944 với diện tích 6 ARE
40m
2
. Cha mẹ ông sử dụng trước ngày 15/10/1993 cho đến khi chết thì ông tiếp
tục sử dụng cho đến nay. Theo hồ sơ đăng ký thống kê năm 1998 đứng tên chủ sử
dụng đất là hộ bà Lê Thị M (mẹ ông) với diện tích 682m
2
(trong đó có 200m
2
đất
ở). Phần diện tích đất chênh lệch tăng là do lấn đất giao thông trước ngày
01/7/2004. Thực tế gia đình ông sử dụng phần đất có diện tích 1.000m
2
(theo
diện tích đóng thuế hàng năm). Hộ gia đình ông do mẹ ông làm chủ hộ còn có
các thành viên khác trong hộ gồm: Trương Thị Bích N2, Trương Thị N2, Trương
4
Thị Hồng T2, Trương Thị Tuyết N3 và ông. Sau khi mẹ ông mất thì ông là con
đại diện và tiếp tục sử dụng thửa đất cho đến nay, không tranh chấp với ai.
Theo Quyết định số 3848 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N,
thành phố Q (giai đoạn 2 - đợt 4) thì hộ gia đình ông được bồi thường, hỗ trợ về
đất với diện tích 682m
2
, gồm 150m
2
đất ở và 532m
2
đất nông nghiệp. Phần diện
tích chênh lệch tăng 29,5m
2
do lấn đất giao thông nên không được tính toán bồi
thường, hỗ trợ. Cùng với đó là các khoản tiền bồi thường, hỗ trợ vật kiến trúc và
các khoản hỗ trợ khác theo quy định. Ngày 06/12/2021, Ủy ban nhân dân thành
phố Q (viết tắt là UBND thành phố) ban hành Quyết định số 10111 về việc giao
lô đất tái định cư số 14, khu A, diện tích 234m
2
, đường D (lộ giới 24m) thuộc
Khu hạ tầng kỹ thuật khu dân cư khu vực 6, phường N, thành phố Q cho hộ bà Lê
Thị M (chết), con là ông Trương Hắc H đại diện kê khai; tiền sử dụng đất phải
nộp là 2.232.000.000 đồng (trong đó 150m
2
nộp tiền sử dụng đất theo đơn giá
9.000.000 m
2
/đồng và 84m
2
nộp tiền sử dụng đất theo đơn giá 10.500.000
m
2
/đồng). Tuy nhiên, nhận thấy phương án bồi thường của các cấp chính quyền
là chưa phù hợp với thực tế nên gia đình ông đã làm đơn khiếu nại đến Chủ tịch
UBND thành phố để đề nghị được giữ lại hiện trạng, không thu hồi đất của gia
đình ông trong Dự án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q.
Gia đình ông chưa nhận tiền bồi thường, đất tái định cư vì đang khiếu nại việc
đền bù, không thuộc trường hợp lấn chiếm đất đai, xây dựng trái phép nhưng
UBND thành phố đã áp đặt tổ chức cưỡng chế thu hồi nhà và đất ở của gia đình
ông, khiến cho gia đình ông rất oan ức vì quyết định trên không ban hành đúng
quy định, khiến gia đình ông rơi vào cảnh không có nhà cửa, không có nơi sinh
sống, trú ngụ, dù đã có ý kiến của Ủy ban nhân dân tỉnh B (viết tắt là UBND
tỉnh) nhưng vẫn tổ chức cưỡng chế gia đình ông.
Ngày 08/4/2022, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số 2150
về việc giải quyết khiếu nại lần đầu của hộ bà Lê Thị M (chết), ông Trương Hắc
H (con) đại diện kê khai; theo đó, không công nhận nội dung đơn khiếu nại của
ông. Quyết định trên chưa xem xét đầy đủ các nội dung khiếu nại của ông đã
trình bày, từ đó đưa ra phương án giải quyết không hợp lý nên ông tiếp tục làm
đơn khiếu nại lần hai, cụ thể: Yêu cầu không thu hồi đất (để lại đất như hiện
trạng) của gia đình ông do ảnh hưởng giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ
tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q. Trường hợp Nhà nước thu
hồi đất thì đề nghị đo đạc xác định lại diện tích đất bị thu hồi để tính toán bồi
thường, hỗ trợ vì diện tích đất thực tế hộ ông sử dụng là 1.000m
2
(nộp tiền thuế
đất hàng năm) nhưng khi đo đạc, xác định diện tích thu hồi là 711,5m
2
, còn thiếu
288,5m
2
; đơn giá bồi thường đất ở 5.000.000 m
2
/đồng là thấp, chưa phù hợp với
đơn giá đất ở thị trường, trong khi đó thu tiền sử dụng đất tái định cư với đơn giá
cao (9.000.000 m
2
/đồng và 10.500.000 m
2
/đồng).
Ngày 18/12/2023, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định số 4678 về
việc giải quyết khiếu nại lần hai, theo đó không công nhận nội dung khiếu nại của
5
ông và giữ nguyên Quyết định số 2150. Việc giải quyết khiếu nại lần hai nêu trên
là chưa xem xét thấu tình, đạt lý đối với nội dung của gia đình ông đã trình bày
về việc bồi thường đất đai, tài sản. Ông không đồng ý với phương án bồi thường,
đơn giá bồi thường, đơn giá thu tiền đất tái định cư và việc ban hành quyết định
cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ gia đình ông. Tại buổi tiếp công dân định kỳ
ngày 15/9/2022, ông cũng đã có ý kiến trình bày là chỉ giải tỏa một phần để thi
công đường giao thông liên quan đến hạ tầng kỹ thuật, còn phần đất còn lại cho
gia đình ông tiếp tục được sử dụng nhưng không được sự đồng ý của các cấp
chính quyền. Hiện nay, công trình ở trước nhà ông đã làm xong đường nhựa,
trồng trụ, kéo dây diện, cống thóat nước. Công trình đã hoàn thành nhưng không
ảnh hưởng vào diện tích đất ở của gia đình. Việc đề xuất phương án đền bù của
các cấp đối với gia đình ông là quá chênh lệch, giá đền bù quá thấp trong khi thu
tiền sử dụng đất tái định cư quá cao nên gia đình không có kinh phí để xây dựng
lại nhà ở. Dự án nay cũng đã hoàn thành, việc gia đình ông đề nghị tiếp tục được
sử dụng mảnh đất xưa nay của ông bà, cha mẹ để lại thực tế không ảnh hưởng
đến việc thực hiện dự án. Nhà từ đường của dòng họ, gia đình, ông không muốn
di đời đi nơi khác và điều kiện kinh tế của gia đình ông cũng không cho phép.
Từ những căn cứ trên, ông đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của hộ gia đình ông.
Bên cạnh các đơn khởi kiện vụ án hành chính, bản sao quyết định hành
chính bị kiện, người khởi kiện còn cung cấp cho Tòa án một số tài liệu, chứng cứ
khác có liên quan đến yêu cầu khởi kiện và không yêu cầu Tòa án thu thập thêm
tài liệu, chứng cứ có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện, ông Nguyễn Tuấn T – Phó
Chủ tịch UBND tỉnh trình bày:
[1] Về nguồn gốc và quá trình sử dụng đất:
Nguyên thửa đất hiện nay ông Trương Hắc H đang khiếu nại tại tổ D, khu
phố F, phường N, thành phố Q có nguồn gốc: Theo Bản đồ đo đạc năm 1997 là
thửa đất số 259, diện tích 682m
2
(gồm 200m
2
đất ở và 482m
2
đất vườn).
Thực hiện Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ quy định về
việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào
mục đích sản xuất nông nghiệp, hộ gia đình bà Lê Thị M (bà M chủ hộ) là xã
viên Hợp tác xã nông nghiệp 2 Nhơn B1 được UBND thành phố xét cân đối giao
quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt là GCN)
cho hộ bà M, trong đó có thửa đất số 259, diện tích 482m
2
đất vườn/682m
2
(theo
Quyết định số 08/QĐ-UB ngày 10/01/1998 của UBND thành phố), số vào sổ cấp
GCN 00693 ngày 20/9/1998, thể hiện trong Sổ mục kê đất (trang số 159, quyển
số 01) và Sổ địa chính (trang số 248, quyển số 02) được Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh B ký duyệt ngày 22/12/1998, đứng tên chủ sử dụng đất hộ bà Lê Thị
M.
6
Ngày 01/4/2006, bà M chết, không để lại di chúc; ông H tiếp tục sử dụng
thửa đất số 259 nêu trên cho đến khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án
xây dựng Khu dân cư K, phường N, thành phố Q.
Theo Bản đồ đo đạc và hồ sơ kỹ thuật thửa đất năm 2016 (phục vụ dự án -
giai đoạn 2): Thửa đất số 259, diện tích 682m
2
(Bản đồ năm 1997) được đo đạc
với tổng diện tích 711,5m
2
, ký hiệu ODT; phần diện tích chênh lệch tăng 29,5m
2
(711,5m
2
- 682m
2
) là do hộ bà M lấn đất giao thông trước ngày 01/7/2004.
[2] Về quy hoạch thực hiện Dự án xây dựng Khu dân cư K, phường N,
thành phố Q:
Ngày 04/02/2016, UBND thành phố ban hành Quyết định số 717/QĐ-
UBND về việc phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và ban
hành quy định quản lý theo đồ án quy hoạch công trình: Khu dân cư K, phường
N, thành phố Q.
Vị trí và ranh giới quy hoạch xây dựng: Thuộc khu vực 6, phường N, thành
phố Q (phía Bắc và phía Nam giáp khu dân cư và ruộng lúa; phía Tây giáp khu
dân cư; phía Đông giáp ruộng lúa); trong đó có thửa đất số 259 nêu trên, hiện ông
H đang khiếu nại.
UBND thành phố đã phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500
công trình: Khu dân cư K, phường N, thành phố Q tại các Quyết định số
7618/QĐ-UBND ngày 25/10/2016, Quyết định số 2754/QĐ-UBND ngày
08/5/2018, Quyết định số 2818/QĐ-UBND ngày 06/5/2019 và Quyết định số
8168/QĐ-UBND ngày 01/11/2021.
[3] Về việc kiểm kê, bồi thường, hỗ trợ và giao đất tái định cư cho hộ gia
đình bà Lê Thị M (chết), ông Trương Hắc H (con) đại diện kê khai:
Ngày 12/3/2020, Tổ công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng dự án đã
tiến hành lập biên bản kiểm kê tổng hợp đất đai nhà cửa, vật kiến trúc hoa màu
và cây cối bị thiệt hại do giải phóng mặt bằng để thực hiện Dự án xây dựng Khu
dân cư K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2) đối với hộ ông H, có sự tham gia
của ông H và ông thống nhất ký tên vào biên bản. Ngày 02/6/2021, UBND thành
phố ban hành 02 quyết định sau:
[3.1] Quyết định số 3848 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N,
thành phố Q (giai đoạn 2 – đợt 4); theo đó, hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông
Trương Hắc H đại diện kê khai được bồi thường, hỗ trợ với tổng số tiền
2.542.128.313 đồng, bao gồm:
- Bồi thường, hỗ trợ 682m
2
đất với số tiền 2.196.840.000 đồng, cụ thể:
Bồi thường đất ở (áp dụng các khoản 6 và 7 Điều 12 của Quyết định số
04/2019/QĐ-UBND ngày 14/02/2019 của UBND tỉnh – viết tắt là Quyết định số
04): 150m
2
x 5.000.000 đồng/m
2
= 750.000.000 đồng.
7
Diện tích đất ở được bồi thường theo hạn mức công nhận đất ở (được quy
định tại Quyết định số 37/2014/QĐ-UBND ngày 25/12/2014 của UBND tỉnh –
viết tắt là Quyết định số 37); đơn giá đất ở cụ thể để phục vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng được UBND thành phố phê duyệt tại Quyết định số
997/2020/QĐ-UBND ngày 28/02/2020 của UBND thành phố (viết tắt là Quyết
định số 997): Đối với đất ở thuộc đường bê tông hiện trạng và đường bê tông
rộng từ 2-5m (đoạn còn lại của đường H và đường H lộ giới 24m).
Bồi thường đất nông nghiệp (đất vườn trong cùng thửa đất có nhà ở) (áp
dụng các Điều 8 của Quyết định số 04): 532m
2
x 370.000 đồng/m
2
= 196.840.000
đồng, hệ số điều chỉnh giá đất để xác định giá đất cụ thể phục vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng phê duyệt là k=2,5 (áp dụng cho đất vườn, ao quy định tại Quyết
định số 65/2019/QĐ-UBND ngày 18/12/2019 của UBND tỉnh – viết tắt là Quyết
định số 65), cụ thể: 74.000 đồng/m
2
x 2 x 2,5 = 370.000 đồng/m
2
.
Hỗ trợ đất vườn: 50% x 5.000.000 đồng/m
2
x 500m
2
= 1.250.000.000 đồng
đồng; áp dụng khoản 1 Điều 1 của Quyết định số 21/2019/QĐ-UBND ngày
28/5/2019 của UBND tỉnh – viết tắt là Quyết định số 21 (sửa đổi, bổ sung khoản
9 Điều 40 của Quyết định số 04) quy định: “9. Hộ gia đình, cá nhân khi Nhà
nước thu hồi đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở nhưng không được công
nhận là đất ở (hoặc thửa đất vườn, ao riêng lẻ) thì ngoài việc được bồi thường
theo giá đất vườn, ao còn được hỗ trợ thêm 50% giá đất ở bồi thường, GPMB
của thửa đất đó (hoặc giá đất ở bồi thường, GPMB của thửa đất liền kề với thửa
đất vườn, ao riêng lẻ) đối với diện tích đất bị thu hồi; trường hợp diện tích thửa
đất vườn, ao bị thu hồi trên 500m
2
thì diện tích đất được hỗ trợ theo giá đất ở là
500m
2
.”
Đối với phần diện tích chênh lệch tăng 29,5m
2
so với Bản đồ năm 1997:
Do hộ bà M lấn đất giao thông trước ngày 01/7/2004 nên không được tính toán
bồi thường, hỗ trợ.
- Bồi thường, hỗ trợ vật kiến trúc (nhà ở, công trình khác gắn liền với đất)
và cây cối, hoa màu: 315.788.313 đồng; áp dụng các Điều 24, 25 và 29 của
Quyết định số 04; đơn giá bồi thường áp dụng theo Quyết định số 21 và Quyết
định số 61/2019/QĐ-UBND ngày 16/12/2019 của UBND tỉnh – viết tắt là Quyết
định số 61).
- Các khoản hỗ trợ khác: 29.500.000 đồng.
[3.2] Quyết định số 3852 về việc thu hồi 711,5m
2
của hộ bà Lê Thị M
(chết), con là ông Trương Hắc H đại diện kê khai, thuộc toàn phần thửa đất 259
(theo đo đạc mới) tại phường N, thành phố Q. Lý do thu hồi đất: Để thực hiện Dự
án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2 – đợt 4).
Ngày 06/9/2921, UBND thành phố có Thông báo số 548/TB-UBND yêu
cầu hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương Hắc H đại diện kê khai, đăng ký
nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và nhận lô đất tái định cư số 14, khu A, diện tích
234m
2
; đồng thời, tháo dỡ nhà ở vật kiến trúc, giao trả mặt bằng cho Nhà nước
8
thực hiện dự án. Tuy nhiên, hộ ông H không đăng ký nhận tiền bồi thường, hỗ
trợ, đất tái định cư và tháo dỡ nhà ở, vật kiến trúc, giao trả mặt bằng nên UBND
thành phố đã gửi số tiền bồi thường, hỗ trợ 2.542.128.313 đồng nêu trên vào tài
khoản tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước B2.
Ngày 23/5/2022, UBND thành phố đã tiến hành tổ chức cưỡng chế thu hồi
đất theo Quyết định số 10723 đối với hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương
Hắc H đại diện kê khai.
Ngày 06/12/2021, UBND thành phố ban hành Quyết định số 10111 giao
đất tái định cư cho hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương Hắc H đại diện kê
khai (ở khu V, phường N, thành phố Q) lô đất số 14, khu A, diện tích 234m
2
,
đường D (lộ giới 24m) thuộc hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành
phố Q để sử dụng vào mục đích đất ở; tiền sử dụng đất hộ phải nộp là
2.232.000.000 đồng = (150m
2
x 9.000.000 đồng/m
2
) + (84m
2
x 10.500.000
đồng/m
2
); đơn giá đất ở tái định cư và giá đất ở theo giá thị trường được UBND
thành phố phê duyệt tại Quyết định số 1173/QĐ-UBND ngày 08/3/2021.
[4] Kết quả giải quyết của các cơ quan chức năng:
Ngày 08/4/2022, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số
2150/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với hộ bà Lê Thị M
(chết), con là ông Trương Hắc H đại diện kê khai (ở tổ D, khu V, phường N,
thành phố Q) với nội dung “Không công nhận nội dung đơn của hộ bà Lê Thị M
(chết), con là ông Trương Hắc H đại diện kê khai, đề nghị Nhà nước để lại như
hiện trạng, không thu hồi đất của gia đình ông trong Dự án xây dựng Khu dân cư
K, phường N, thành phố Q”.
Không đồng ý với việc giải quyết của Chủ tịch UBND thành phố, ông H
có đơn khiếu nại. Trên cơ sở kết quả kiểm tra, xác minh, rà soát hồ sơ và đề xuất
giải quyết khiếu nại của ông H của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B tại Báo
cáo số 140/BC-STNMT ngày 18/7/2022, Chủ tịch UBND tỉnh đã chủ trì tiếp và
đối thoại với ông H (đại diện theo uỷ quyền của các anh, chị, em là con của bà Lê
Thị M – chủ hộ, đã chết) vào ngày 15/9/2023 và ban hành Quyết định số 4678 về
việc giải quyết khiếu nại lần hai đối với ông H “Không công nhận toàn bộ nội
dung khiếu nại nêu trên của ông Trương Hắc H (đại diện hộ gia đình bà Lê Thị
M), vì không có cơ sở để xem xét, giải quyết. Chủ tịch UBND thành phố ban
hành Quyết định số 2150 là đúng theo quy định của pháp luật”.
Quyết định số 4678 được ban hành đúng quy định. Do đó, ông H khởi kiện
yêu cầu huỷ quyết định trên là không có cơ sở và Chủ tịch UBND tỉnh không
đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H yêu cầu Toà án huỷ Quyết định số 4678.
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện, ông Nguyễn Đức T1 – Phó
Chủ tịch UBND thành phố trình bày:
[1] Hộ bà Lê Thị M (chết), con ông Trương Hắc H đại diện kê khai ở tổ D,
khu phố F, phường N là hộ có đất bị thu hồi với diện tích 711,5m
2
thuộc toàn
9
phần thửa đất 259, tờ bản đồ số 43 (theo đo đạc mới) để thực hiện Dự án công
trình hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (đợt 4, giai đoạn 2)
theo Quyết định số 3852.
[2] Nguồn gốc sử dụng đất được UBND phường N xác nhận: Đất có nhà ở
do cha mẹ tạo lập cho lại vợ chồng bà Lê Thị M vào trước ngày 15/10/1993 sử
dụng đến khi chết và ông H tiếp tục sử dụng đến nay (không có giấy tờ về việc
tặng cho hay chuyển nhượng). Theo hồ sơ đăng ký thống kê năm 1998 đứng tên
chủ sử dụng đất là bà Lê Thị M. Phần diện tích đất chênh lệch tăng là do lấn một
phần đất giao thông vào trước ngày 01/7/2004.
[3] Hồ sơ bồi thường thể hiện:
Theo Quyết định số 3848 thì hộ Lê Thị M (chết), con ông Trương Hắc H
đại diện kê khai (giải tỏa toàn phần) được phê duyệt giá trị bồi thường, hỗ trợ với
số tiền là 2.542.128.313 đồng, trong đó:
Bồi thường, hỗ trợ về đất: 2.196.80.000 đồng, cụ thể:
- 150m
2
được bồi thường đất ở theo hạn mức với số tiền là 750.000.000
đồng;
- 532m
2
được bồi thường đất vườn với số tiền là 196.480.000 đồng và hỗ
trợ thêm 50% giá đất ở bồi thường, diện tích hỗ trợ 500m
2
với số tiền là
1.250.000.000 đồng;
- 29,5m
2
lấn đất giao thông trước ngày 01/7/2004 không được bồi thường.
Bồi thường, hỗ trợ vật kiến trúc, cây cối, hoa màu với số tiền là
315.788.313 đồng.
Các khoản hỗ trợ khác với số tiền là 29.500.000 đồng.
Về đất tái định cư: Hộ bà Lê Thị M (chết), đại diện kê khai con Trương
Hắc Hổ được giao lô đất số 14 – Khu A14, diện tích 234m
2
(12m x 19,5m),
đường D (lộ giới 24m) thuộc khu hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N,
thành phố Q với số tiền sử dụng đất phải nộp là 2.232.000.000 đồng.
[4] Hộ bà Lê Thị M (chết), con Trương Hắc H đại diện kê khai là hộ gia
đình thuộc diện giải tỏa trắng để xây dựng dự án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K
phường N, thành phố Q (giai đoạn 2).
Thực hiện Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc giao
đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích
sản xuất nông nghiệp, hộ bà Lê Thị M là hộ xã viên Hợp tác xã Nông nghiệp 2
Nhơn B1 được UBND phường N cân đối và đề nghị UBND thành phố giao
quyền sử dụng đất, trong đó có thửa đất số 259, tờ bản đồ số 43, diện tích 482m
2
đất vườn (theo Quyết định số 08/QĐ-UB ngày 10/01/1998 của UBND thành
phố).
Theo Hồ sơ kỹ thuật địa chính đo đạc ngày 20/5/1997 có ghi thửa đất số
259, tờ bản đồ số 43, diện tích 682m
2
, mục đích sử dụng đất là đất ở.
10
Theo Sổ Địa chính (trang số 248, quyển số 02) được Sở Địa chính Bình
Định ký duyệt ngày 22/12/1998, tên chủ sử dụng đất: Hộ bà Lê Thị M có ghi
thửa đất số 259, tờ bản đồ số 43: đất vườn 482m
2
(không ghi diện tích đất ở).
Theo Sổ Mục kê đất (trang 159, quyển số 01) được Sở Địa chính Bình
Định ký duyệt ngày 22/12/1998, tên chủ sử dụng đất: Hộ bà Lê Thị M có ghi
thửa đất số 259, tờ bản đồ số 43 có diện tích 682m
2
gồm 200m
2
đất ở và 482m
2
đất vườn.
Diện tích thửa đất đo đạc vào năm 2020 để phục vụ công tác giải phóng
mặt bằng là 711,5m
2
đúng theo hiện trạng sử dụng tại thời điểm đó, phù hợp với
diện tích của thửa đất được đăng ký thống kê năm 1998 là 682m
2
, diện tích tăng
hơn là do lấn chiếm 29,5m
2
đất giao thông ở phía Nam của thửa đất.
Ngày 06/10/2023, Ban Quản lý dự án Đầu tư Xây dựng và Phát triển quỹ
đất thành phố Q (đơn vị thực hiện đo đạc hiện trạng sử dụng đất phục vụ công tác
giải phóng mặt bằng), UBND phường N và hộ bà Lê Thị M - ông Trương Hắc H
đại diện tiến hành đo đạc thửa đất số 259, tờ bản đồ số 43 bị ảnh hưởng giải
phóng mặt thực hiện dự án; diện tích đo đạc thực tế 917,5m
2
tăng hơn so với hồ
sơ kỹ thuật phục vụ giải phóng mặt bằng đo đạc năm 2020 là 206m
2
= (917,5m
2
-
711,5m
2
), là do đo đạc theo đề nghị của ông H, đo đạc cả phần đất của hộ bà Lê
Thị Ngọc H2 ở phía Bắc thửa đất và phần đường đi ở phía Nam thửa đất.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 04/2019/QĐ-
UBND ngày 14/2/2023 của UBND tỉnh về chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất (viết tắt là Quyết định số 04): “Đối với hộ gia
đình, cá nhân khi chưa được cấp giấy chứng nhận, sử dụng ổn định mà có tên
trong Sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính trước ngày 15/10/1993; trường hợp sổ
đăng ký ruộng đất đã được thay thế bằng Sổ địa chính lập sau ngày 15/10/1993
thì căn cứ vào Sổ địa chính lập sau ngày 15/10/1993”. Tuy nhiên, trong Sổ Địa
chính (trang số 248, quyển số 02) được Sở Địa chính (nay là Sở T) Bình Định ký
duyệt ngày 22/12/1998 có ghi thửa đất số 259, tờ bản đồ số 43 thể hiện 482m
2
đất
vườn thừa, không thể hiện diện tích đất ở. Do đó, trường hợp hộ bà M không
được áp dụng điểm b khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 04 mà được áp dụng
điểm a khoản 6 Điều 12 của Quyết định số 04, cụ thể: Bồi thường 150m
2
đất ở
theo hạn mức công nhận, 532m
2
đất vườn và không bồi thường, hỗ trợ 29,5m
2
đất
lấn chiếm đường giao thông.
Việc UBND thành phố không xem xét bồi thường diện tích đất ở đối với
hộ bà Lê Thị M theo diện tích 200m
2
ghi trong Sổ mục kê đất (trang số 159,
quyển số 01) được Sở Địa chính Bình Định ký duyệt ngày 22/12/1998; chỉ được
bồi thường đất ở theo hạn mức công nhận 150m
2
là đúng quy định tại Quyết định
số 04.
[5] Kết quả giải quyết đơn:
11
Hộ bà Lê Thị M (chết), đại diện kê khai con Trương Hắc H có đơn khiếu
nại Nhà nước để lại như hiện trạng, không thu hồi đất của gia đình ông trong Dự
án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q.
Ngày 18/02/2022, Ban Q quỹ đất thành phố Q chủ trì, phối hợp UBND
phường N và các đơn vị có liên quan tổ chức làm việc với hộ bà Lê Thị M (chết),
đại diện kê khai con Trương Hắc H để lấy ý kiến về việc bố trí tái định cư ngay
vị trí thu hồi đất của hộ gia đình do ảnh hưởng giải phóng mặt bằng Dự án hạ
tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2) theo ý kiến chỉ
đạo của UBND thành phố tại Văn bản số 342/UBND – ĐT ngày 15/02/2022.
Qua làm việc, các phòng, ban, đơn vị có liên quan đề nghị hộ gia đình ông
H đăng ký nhận tiền bồi thường và giao trả mặt bằng cho Nhà nước; đồng thời
thống nhất sẽ báo cáo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoán đổi vị trí
tái định cư từ lô đất số 14 – Khu A, diện tích 234m
2
(12m x 19,5m), đường D (lộ
giới 24m) sang vị trí Khu A, đường D (lộ giới 24m) theo hiện trạng trên thửa đất
cũ của gia đình ông H đang sinh sống với diện tích tương ứng với lô đất đã xét
giao. Tuy nhiên, ông H vẫn không đồng ý với lý do: Thửa đất của hộ thuộc đất
dòng tộc, ông H hiện đang sinh sống trên thửa đất này nhưng không thể quyết
định được, dòng tộc có rất nhiều người. Ông dự kiến thời gian khoảng đầu tháng
3/2022 tổ chức họp gia tộc và báo cáo lại. Tuy nhiên, cho đến nay gia đình ông H
chưa có thông tin phản hồi lại.
Căn cứ Quyết định số 717/QĐ-UBND ngày 04/2/2016 của UBND thành
phố về việc phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và ban hành
Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch công trình Khu dân cư K, phường N,
thành phố Q và Quyết định số 2818/QĐ-UBND ngày 06/5/2019 của UBND
thành phố về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/500 công
trình: Khu dân cư K, phường N, thành phố Q. Trên cơ sở đồ án quy hoạch chi tiết
xây dựng tỷ lệ 1/500 công trình Khu dân cư K, phường N, thành phố Q được phê
duyệt. UBND thành phố xây dựng và tổ chức triển khai dự án Khu dân cư K,
phường N; cụ thể: Thực hiện thông báo, niêm yết, lấy ý kiến, kiểm kê, lập
phương án bồi thường đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc, cây cối, hoa màu, mồ mả,...
để giải phóng mặt bằng trong phạm vi quy hoạch. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng đã tổ chức kiểm kê, lập phương án bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng theo đúng quy định, hộ bà Lê Thị M (chết), con ông Trương Hắc
H đại diện kê khai, thường trú tổ D, Khu V, phường N là hộ có đất bị thu hồi với
diện tích 711,5m
2
thuộc toàn phần thửa đất 259, tờ bản đồ số 43 (theo đo đạc
mới).
Việc hộ bà Lê Thị M (chết), con ông Trương Hắc H đại diện kê khai có
khiếu nại Nhà nước để lại, không thu hồi đất của gia đình ông là không đúng với
quy định của Nhà nước về chủ trương quy hoạch, xây dựng hạ tầng kỹ thuật phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương nên không có cơ sở xem xét giải quyết.
Từ những căn cứ trên, Chủ tịch UBND thành phố và UBND thành phố ban
hành Quyết định số 3852; Quyết định số 3848 về việc phê duyệt phương án bồi
12
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư
K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2 – đợt 4) đối với hộ bà Lê Thị M (chết),
con là ông Trương Đắc H3; Quyết định số 10111; Quyết định số 10723 và Quyết
định số 2150 là đúng quy định pháp luật.
Do đó, Chủ tịch và UBND thành phố và UBND thành phố không đồng ý
với yêu cầu khởi kiện của ông H3 về việc yêu cầu Toà án hủy các quyết định trên
và không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông H3 về việc yêu cầu Toà án buộc
UBND thành phố phê duyệt bổ sung phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố
Q (giai đoạn 2 – đợt 4) đối với hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương Đắc H3
như sau: Về đất: Yêu cầu bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích thực tế là 1.000m
2
;
về tái định cư: Đề nghị giao lại cho ông phần đất còn lại sau khi trừ đi diện tích
đất bị ảnh hưởng do làm đường, vỉa hè (nếu có).
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông
Phan Khắc D – Phó Giám đốc Ban Quản lý dự án Đầu tư Xây dựng và Phát triển
quỹ đất thành phố Q trình bày:
Ông thống nhất với nội dung trình bày của ông Nguyễn Đức T1 – Phó Chủ
tịch UBND thành phố.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông H3, Ban Quản lý dự án Đầu tư Xây
dựng và Phát triển quỹ đất thành phố Q đề nghị Toà án giải quyết theo quy định.
Ngoài ra, Ban Quản lý dự án Đầu tư Xây dựng và Phát triển quỹ đất thành phố Q
không có yêu cầu độc lập nào khác.
Người đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông
Đỗ Xuân N1 – Chủ tịch UBND phường N trình bày:
Về nguồn gốc đất, ông thống nhất như nội dung của ông Nguyễn Đức T1 –
Phó Chủ tịch UBND thành phố trình bày.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông H3, UBND phường N đề nghị Toà án
giải quyết theo quy định. Ngoài ra, UBND phường N không có yêu cầu độc lập
nào khác.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các bà Trương Thị Bích
N2, Trương Thị N2 và Trương Thị Tuyết N3 thống nhất trình bày:
Thửa đất ông H3 đang khiếu nại có nguồn gốc đất là của ông bà để lại cho
cha mẹ các bà; cha mẹ các bà chết, không để lại di chúc và thửa đất trên chưa
được phân chia.
Đối với yêu cầu của ông H3, các bà đề nghị giải quyết theo quy định.
Ngoài ra, các bà không có yêu cầu độc lập nào khác.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, chị Trương Thị Hồng V và
anh Trương Công B thống nhất trình bày:
13
Anh chị thống nhất như nội dung trình bày và yêu cầu khởi kiện của ông
H3. Ngoài ra, anh chị không có yêu cầu độc lập nào khác.
Tại bản án hành chính sơ thẩm số 31/2024/HC-ST ngày 05/8/2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định đã quyết định:
- Căn cứ vào quy định tại Điều 30, Điều 32, Điều 116, điểm a khoản 2
Điều 193 và Điều 194 của Luật Tố tụng hành chính.
- Căn cứ vào quy định của Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày
11/11/2011; Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính
quyền địa phương ngày 22/11/2019; Luật Đất đai ngày 29/11/2013; Nghị định số
124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại ngày 11/11/2011; Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông
tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy
trình giải quyết khiếu nại hành chính; Thông tư số 02/2016/TT-TTCP ngày
20/10/2016 của Thanh tra Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy
trình giải quyết khiếu nại hành chính; Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày
02/6/2014 của Bộ trưởng Bộ T3 quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày
30/6/2014 của Bộ trưởng Bộ T3 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 04/2019/QĐ-UBND ngày 14/02/2019
của Ủy ban nhân dân tỉnh B; Quyết định số 65/2019/QĐ-UBND ngày 18/12/2019
của Ủy ban nhân dân tỉnh B; Quyết định số 21/2017/QĐ-UBND ngày 19/5/2017
của Ủy ban nhân dân tỉnh B; Quyết định số 61/2019/QĐ-UBND ngày 16/12/2019
của Ủy ban nhân dân tỉnh B.
- Căn cứ quy định tại Điều 2 của Luật Người cao tuổi; điểm đ khoản 1
Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hắc H về việc yêu
cầu Tòa án hủy các quyết định hành chính sau:
- Quyết định số 3852/QĐ-UBND ngày 02/6/2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Một phần Quyết định số 3848/QĐ-UBND ngày 02/6/2021 của Ủy ban
nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định về việc phê duyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K,
14
phường N, thành phố Q (giai đoạn 2 – đợt 4) đối với hộ bà Lê Thị M (chết), con
là ông Trương Hắc H.
- Quyết định số 10111/QĐ-UBND ngày 06/12/2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Quyết định số 10723/QĐ-UBND ngày 21/12/2021 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Quyết định số 4678/QĐ-UBND ngày 18/12/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh B.
- Quyết định số 2150/QĐ-UBND ngày 08/4/2022 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hắc H về việc yêu
cầu Tòa án buộc Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định phê duyệt bổ
sung phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng
kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2 – đợt 4) đối với hộ
bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương Hắc H như sau:
Về đất: Yêu cầu bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích thực tế là 1.000m
2
.
Về tái định cư: Đề nghị giao lại cho ông phần đất còn lại sau khi trừ đi
diện tích đất bị ảnh hưởng do làm đường, vỉa hè (nếu có).
3. Về án phí hành chính sơ thẩm: Ông Trương Hắc H không phải chịu.
Ngày 16/8/2024, Toà án nhân dân tỉnh Bình Định nhận đơn kháng cáo của
ông Trương Hắc H, đề ngày 14/8/2024, kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tại
phiên toà phúc thẩm:
Về tố tụng: Thẩm phán chủ tọa và Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư ký phiên
tòa đã chấp hành đúng các quy định của Luật Tố tụng hành chính trong giai đoạn
xét xử phúc thẩm.
Về nội dung vụ án: Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử vụ án có căn cứ và đúng
pháp luật; kháng cáo của người khởi kiện không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét
xử căn cứ vào khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính, không chấp nhận
kháng cáo của người khởi kiện là ông Trương Hắc H, giữ nguyên Bản án hành
chính sơ thẩm số: 31/2024/HC-ST ngày 05/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa;
kết quả tranh tụng tại phiên tòa; xem xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát;
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
15
[1]. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, ông Trần Bá N là người đại diện
theo uỷ quyền của người khởi kiện ông Trương Hắc H không rút đơn khởi kiện
và giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đơn kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm
xem xét chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông, huỷ các Quyết định hành chính bị
khởi kiện. Tại phiên toà phúc thẩm, ông Trần Bá N đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm huỷ Bản án sơ thẩm, giao về Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại vì cấp sơ thẩm
vi phạm thủ tục tố tụng.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện về đề
nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện
của người khởi kiện, huỷ các Quyết định hành chính bị khởi kiện; Hội đồng xét
xử thấy rằng:
[3] Xét về hình thức, thẩm quyền trình tự, thủ tục, thời hiệu, thời hạn ban
hành các quyết định, thấy rằng:
Căn cứ các khoản 1 Điều 18, khoản 2 Điều 21, Điều 31, Điều 40 của Luật
Khiếu nại ngày 11/11/2011; Luật Đất đai ngày 29/11/2013; Luật Tổ chức chính
quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 22/11/2019;
Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014
của Chính phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất; Nghị định số 124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi
tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại; Thông tư số 30/2014/TT-
BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ trưởng Bộ T3 quy định về hồ sơ giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; Thông tư số 37/2014/TT-
BTNMT ngày 30/6/2014 của Bộ trưởng Bộ T3 quy định chi tiết về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì hình thức, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục, thời hiệu, thời hạn ban hành Quyết định số 3852, Quyết định số 3848,
Quyết định số 10111, Quyết định số 10723, Quyết định số 4678 và Quyết định số
2150 là đúng quy định.
[4] Xét tính hợp pháp và có căn cứ về nội dung:
[4.1] Theo Quyết định số 3852, hộ bà Lê Thị M (chết), con Trương Hắc H
đại diện kê khai bị thu hồi 711,5m
2
đất thuộc toàn phần thửa đất số 259 để thực
hiện Dự án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K phường N, thành phố Q (đợt 4 - giai
đoạn 2).
Nguyên thửa đất hiện nay ông Trương Hắc H đang khiếu nại tại tổ D, khu
phố F, phường N, thành phố Q có nguồn gốc như sau: Theo Bản đồ đo đạc năm
1997 là thửa đất số 259, diện tích 682m
2
(gồm 200m
2
đất ở và 482m
2
đất vườn).
Thực hiện Nghị định số 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ quy định về việc
giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục
đích sản xuất nông nghiệp, hộ gia đình bà Lê Thị M (bà M chủ hộ) là xã viên
Hợp tác xã nông nghiệp 2 Nhơn B1 được UBND thành phố xét cân đối giao
16
quyền sử dụng đất và cấp GCN cho hộ bà M, trong đó có thửa đất số 259, diện
tích 482m
2
đất vườn/682m
2
(theo Quyết định số 08/QĐ-UB ngày 10/01/1998 của
UBND thành phố), số vào sổ cấp GCN 00693 ngày 20/9/1998, thể hiện trong Sổ
mục kê đất (trang số 159, quyển số 01) và Sổ địa chính (trang số 248, quyển số
02) được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B ký duyệt ngày 22/12/1998, đứng
tên chủ sử dụng đất hộ bà Lê Thị M. Theo Bản đồ đo đạc và hồ sơ kỹ thuật thửa
đất năm 2016 (phục vụ dự án – giai đoạn 2): Thửa đất số 259, diện tích 682m
2
(Bản đồ năm 1997) được đo đạc với tổng diện tích 711,5m
2
, ký hiệu ODT; phần
diện tích chênh lệch tăng 29,5m
2
(711,5m
2
- 682m
2
) là do hộ bà M lấn đất giao
thông trước ngày 01/7/2004.
Ngày 01/4/2006, bà M chết, không để lại di chúc; ông H tiếp tục sử dụng
thửa đất số 259 nêu trên cho đến khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện Dự án
xây dựng Khu dân cư K, phường N, thành phố Q.
Diện tích thửa đất đo đạc vào năm 2020 để phục vụ công tác giải phóng
mặt bằng là 711,5m
2
đúng theo hiện trạng sử dụng tại thời điểm đó, phù hợp với
diện tích của thửa đất được đăng ký thống kê năm 1998 là 682m
2
, diện tích tăng
hơn là do lấn chiếm 29,5m
2
đất giao thông ở phía Nam của thửa đất.
Ngày 06/10/2023, Ban Quản lý dự án Đầu tư Xây dựng và Phát triển quỹ
đất thành phố Q (đơn vị thực hiện đo đạc hiện trạng sử dụng đất phục vụ công tác
giải phóng mặt bằng), UBND phường N và hộ bà Lê Thị M - ông Trương Hắc H
đại diện tiến hành đo đạc thửa đất số 259, tờ bản đồ số 43 bị ảnh hưởng giải
phóng mặt bằng thực hiện dự án; diện tích đo đạc thực tế 917,5m
2
tăng hơn so
với hồ sơ kỹ thuật phục vụ giải phóng mặt bằng đo đạc năm 2020 là 206m
2
=
(917,5m
2
- 711,5m
2
), là do đo đạc theo đề nghị của ông H, đo đạc cả phần đất của
hộ bà Lê Thị Ngọc H2 ở phía Bắc thửa đất và phần đường đi ở phía Nam thửa
đất.
Tại điểm d khoản 4 Điều 4 của Quyết định số 04/2019/QĐ-UBND ngày
14/2/2019 của UBND tỉnh B quy định về nguyên tắc bồi thường về đất như sau:
“4. Diện tích đất được bồi thường, hỗ trợ là diện tích ghi trên giấy tờ về
quyền sử dụng đất. Trường hợp có chênh lệch giữa diện tích đo đạc thực tế với
diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì được bồi thường như sau:
d) Đối với phần diện tích đất nhiều hơn diện tích đất ghi trên giấy tờ về
quyền sử dụng đất mà diện tích đất nhiều hơn là do hành vi lấn, chiếm mà có thì
không được bồi thường về đất (trừ trường hợp được bồi thường quy định tại
Khoản 2 Điều 8 của Quy định này).”
Đối chiếu với quy định trên, Hội đồng giải phóng mặt bằng xác định diện
tích bị ảnh hưởng thu hồi của hộ bà Lê Thị M (chết), con Trương Hắc H đại diện
kê khai là 711,5m
2
đất thuộc toàn phần thửa đất số 259, trong đó phần diện tích
đất được bồi thường là 682m
2
/711,5m
2
(theo Sổ địa chính trang số 248, quyển số
02 được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh B ký duyệt ngày 22/12/1998, đứng
tên chủ sử dụng đất hộ bà Lê Thị M) là phù hợp.
17
Do đó, Quyết định số 3852 được ban hành đúng quy định và việc ông H
yêu cầu đo đạc xác định lại diện tích đất bị thu hồi để tính toán bồi thường, hỗ trợ
vì diện tích đất thực tế hộ ông sử dụng là 1.000m
2
(nộp tiền thuế đất hàng năm) là
không có cơ sở để xem xét.
[4.2] Theo Quyết định số 3848 thì hộ Lê Thị M (chết), con ông Trương
Hắc H đại diện kê khai (giải tỏa toàn phần) được phê duyệt giá trị bồi thường, hỗ
trợ với số tiền là 2.542.128.313 đồng, trong đó:
- Bồi thường, hỗ trợ về đất: 2.196.80.000 đồng, cụ thể:
+ 150m
2
được bồi thường đất ở theo hạn mức với số tiền là 750.000.000
đồng;
+ 532m
2
được bồi thường đất vườn với số tiền là 196.480.000 đồng và hỗ
trợ thêm 50% giá đất ở bồi thường, diện tích hỗ trợ 500m
2
với số tiền là
1.250.000.000 đồng;
+ 29,5m
2
lấn đất giao thông trước ngày 01/7/2004 không được bồi thường.
- Bồi thường, hỗ trợ vật kiến trúc, cây cối, hoa màu với số tiền là
315.788.313 đồng.
- Các khoản hỗ trợ khác với số tiền là 29.500.000 đồng.
Tại Quyết định số 11031/QĐ-UBND ngày 19/12/2023 của UBND thành
phố (viết tắt là Quyết định số 11031) thì hộ Lê Thị M (chết), con ông Trương
Hắc H đại diện kê khai được phê duyệt bổ sung giá trị bồi thường về nhà là
119.962.011 đồng; lý do điều chỉnh: Tổ công tác áp giá sai đơn giá nhà N5, diện
tích 12,69m
2
, tính thiếu khối lượng nhà N5 với diện tích 36,21m
2
, tính thiếu hỗ
trợ 15% nhà vệ sinh ngoài nhà N6.
Tại Quyết định số 716/QĐ-UBND ngày 25/01/2024 của UBND thành phố
(viết tắt là Quyết định số 716) thì hộ Lê Thị M (chết), con ông Trương Hắc H đại
diện kê khai được phê duyệt bổ sung giá trị hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc
làm là 236.208.000 đồng.
Về bồi thường về đất:
Theo Quyết định số 08/QĐ-UB ngày 10/01/1998 của UBND thành phố, hộ
bà Lê Thị M được UBND phường N cân đối và đề nghị UBND thành phố giao
quyền sử dụng đất, trong đó có thửa đất số 259, tờ bản đồ số 43, diện tích 482m
2
đất vườn. Theo Hồ sơ kỹ thuật địa chính đo đạc ngày 20/5/1997 có ghi thửa đất
số 259, tờ bản đồ số 43, diện tích 682m
2
, mục đích sử dụng đất là đất ở. Theo Sổ
Địa chính (trang số 248, quyển số 02) được Sở Địa chính Bình Định ký duyệt
ngày 22/12/1998, tên chủ sử dụng đất: Hộ bà Lê Thị M có ghi thửa đất số 259, tờ
bản đồ số 43: đất vườn 482m
2
(không ghi diện tích đất ở). Theo Sổ Mục kê đất
(trang 159, quyển số 01) được Sở Địa chính Bình Định ký duyệt ngày
22/12/1998, tên chủ sử dụng đất: Hộ bà Lê Thị M có ghi thửa đất số 259, tờ bản
đồ số 43 có diện tích 682m
2
gồm 200m
2
đất ở và 482m
2
đất vườn.
18
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 5 của Quyết định số 04: “Đối với
hộ gia đình, cá nhân khi chưa được cấp giấy chứng nhận, sử dụng ổn định mà có
tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính trước ngày 15/10/1993; trường hợp
sổ đăng ký ruộng đất đã được thay thế bằng Sổ địa chính lập sau ngày
15/10/1993 thì căn cứ vào Sổ địa chính lập sau ngày 15/10/1993”.
Tuy nhiên, trong Sổ Địa chính (trang số 248, quyển số 02) được Sở Địa
chính (nay là Sở T) Bình Định ký duyệt ngày 22/12/1998 có ghi thửa đất số 259,
tờ bản đồ số 43 thể hiện 482m
2
đất vườn thừa, không thể hiện diện tích đất ở. Do
đó, trường hợp hộ bà M không được áp dụng điểm b khoản 1 Điều 5 của Quyết
định số 04 mà được áp dụng điểm a khoản 6 Điều 12 của Quyết định số 04, cụ
thể: Bồi thường 150m
2
đất ở theo hạn mức công nhận, 532m
2
đất vườn và không
bồi thường, hỗ trợ 29,5m
2
đất lấn chiếm đường giao thông.
Căn cứ các Điều 24, 25 và 29 của Quyết định số 04; đơn giá bồi thường áp
dụng theo Quyết định số 21/2017/QĐ-UBND ngày 19/5/2017 và Quyết định số
61/2019/QĐ-UBND ngày 16/12/2019 của UBND tỉnh thì giá trị bồi thường, hỗ
trợ vật kiến trúc (nhà ở, công trình khác gắn liền với đất) đối với hộ Lê Thị M
(chết), con ông Trương Hắc H đại diện kê khai do ảnh hưởng giải phóng mặt
bằng Dự án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q theo Quyết
định số 3848, Quyết định số 11031 và Quyết định số 716 được ban hành đúng
quy định.
[4.3] Ngày 06/12/2021, UBND thành phố ban hành Quyết định số 10111
giao đất tái định cư cho hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương Hắc H đại diện
kê khai (ở khu V, phường N, thành phố Q) lô đất số 14, khu A, diện tích 234m
2
,
đường D (lộ giới 24m) thuộc hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành
phố Q để sử dụng vào mục đích đất ở; tiền sử dụng đất hộ phải nộp là
2.232.000.000 đồng = (150m
2
x 9.000.000 đồng/m
2
) + (84m
2
x 10.500.000
đồng/m
2
); đơn giá đất ở tái định cư và giá đất ở theo giá thị trường được UBND
thành phố phê duyệt tại Quyết định số 1173/QĐ-UBND ngày 08/3/2021.
Tại Quyết định số 04 về giao đất tái định cư như sau:
“Điều 42. Giao đất ở tái định cư
1. Hộ gia đình, cá nhân bị giải tỏa trắng diện tích đất ở đủ điều kiện bồi
thường hoặc bị giải tỏa một phần diện tích đất ở đủ điều kiện bồi thường mà
phần diện tích còn lại không đủ điều kiện để xây dựng lại nhà ở theo quy định
của Nhà nước thì được xét giao đất tái định cư theo quy định sau:
a) Diện tích đất ở bị thu hồi nhỏ hơn hạn mức giao đất ở thì được giao 01
lô đất tái định cư nhưng không vượt hạn mức giao đất ở.
b) Diện tích đất ở bị thu hồi bằng hạn mức giao đất ở đến dưới 1,5 lần hạn
mức giao đất ở thì được giao 01 lô đất tái định cư nhưng không vượt diện tích
đất ở bị thu hồi. Trường hợp khu tái định cư có quy hoạch các lô diện tích nhỏ thì
19
có thể xét giao 02 lô đất tái định cư nhưng tổng diện tích không vượt diện tích
đất ở bị thu hồi.
c) Diện tích đất ở bị thu hồi bằng 1,5 lần hạn mức giao đất ở đến dưới 03
lần hạn mức giao đất ở thì được giao 02 lô đất tái định cư nhưng không vượt
diện tích đất ở bị thu hồi.
d) Diện tích đất ở bị thu hồi từ 03 lần hạn mức giao đất ở trở lên thì được
giao 03 lô đất tái định cư nhưng không vượt diện tích đất ở bị thu hồi.
......
4. Diện tích giao đất ở cho mỗi lô đất tái định cư, vị trí giao đất ở cụ thể
trong khu tái định cư theo quy định tại Khoản 1, 2, 3 Điều này do Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư của dự án xem xét, trình cấp có thẩm quyền quyết
định phù hợp với quỹ đất tái định cư của dự án, thiết kế phân lô đất, mức độ diện
tích đất ở bị thu hồi, vị trí thuận lợi của đất ở bị thu hồi của các hộ gia đình.
5. Giá trị suất tái định cư tối thiểu bằng diện tích đất ở tái định cư tối thiểu
nhân với giá đất ở cụ thể trung bình cộng tại khu tái định cư. Trong đó:
- Diện tích đất ở tái định cư tối thiểu: tính bằng 50% hạn mức giao đất ở
theo quy định của UBND tỉnh tại thời điểm thu hồi đất và được xác định theo hạn
mức giao đất ở tại địa bàn có khu đất tái định cư.
- Giá đất ở cụ thể trung bình cộng tại khu tái định cư do Hội đồng bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư chịu trách nhiệm xác định dựa trên cơ sở giá đất ở
cụ thể của các tuyến đường thuộc quỹ đất bố trí tái định cư cho dự án đã được
UBND tỉnh phê duyệt phục vụ cho việc giao đất tái định cư của dự án đó.
Điều 43. Giá đất để giao đất tái định cư và thu tiền sử dụng đất tái định cư
1. Hộ gia đình, cá nhân được bồi thường bằng đất ở theo hình thức tái
định cư hoặc bằng tiền được giao đất ở tái định cư thì giá đất để thu tiền sử dụng
đất đối với diện tích đất bố trí tái định cư theo giá đất ở cụ thể do UBND tỉnh
quyết định theo từng dự án.
Đối với phần diện tích đất ở giao tái định cư theo các quy định tại Khoản
2 Điều 19, Khoản 1, Khoản 2 Điều 42 mà vượt so diện tích đất ở đủ điều kiện bồi
thường bị thu hồi (nếu có) và Khoản 3 Điều 42 thì thu tiền sử dụng đất theo giá
đất ở thị trường...”
Căn cứ quy định trên, hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương Hắc H bị
thu hồi 150m
2
đất ở và được giao đất tái định cư lô đất số 14, khu A, diện tích
234m
2
, đường D (lộ giới 24m) thuộc hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N,
thành phố Q để sử dụng vào mục đích đất ở; tiền sử dụng đất hộ phải nộp là
2.232.000.000 đồng = (150m
2
x 9.000.000 đồng/m
2
) + (84m
2
x 10.500.000
đồng/m
2
) theo Quyết định số 10111 là phù hợp.
Ngoài ra, ngày 18/02/2022, Ban Q quỹ đất thành phố Q chủ trì, phối hợp
UBND phường N và các đơn vị có liên quan tổ chức làm việc với hộ bà Lê Thị
20
M (chết), đại diện kê khai con Trương Hắc H để lấy ý kiến về việc bố trí tái định
cư ngay vị trí thu hồi đất của hộ gia đình do ảnh hưởng giải phóng mặt bằng Dự
án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2) theo ý
kiến chỉ đạo của UBND thành phố tại Văn bản số 342/UBND – ĐT ngày
15/02/2022.
Qua làm việc, các phòng, ban, đơn vị có liên quan đề nghị hộ gia đình ông
H đăng ký nhận tiền bồi thường và giao trả mặt bằng cho Nhà nước; đồng thời
thống nhất sẽ báo cáo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoán đổi vị trí
tái định cư từ lô đất số 14 – Khu A, diện tích 234m
2
(12m x 19,5m), đường D (lộ
giới 24m) sang vị trí Khu A, đường D (lộ giới 24m) theo hiện trạng trên thửa đất
cũ của gia đình ông H đang sinh sống với diện tích tương ứng với lô đất đã xét
giao. Tuy nhiên, ông H vẫn không đồng ý với lý do: Thửa đất của hộ thuộc đất
dòng tộc, ông H hiện đang sinh sống trên thửa đất này nhưng không thể quyết
định được, dòng tộc có rất nhiều người. Ông dự kiến thời gian khoảng đầu tháng
3/2022 tổ chức họp gia tộc và báo cáo lại. Tuy nhiên, cho đến nay gia đình ông H
chưa có thông tin phản hồi lại.
[4.4].Tại phiên toà phúc thẩm, ông Trần Bá N cho rằng trong giai đoạn sơ
thẩm, đương sự có khiếu nại về đơn giá bồi thường nhưng Toà án không xem xét;
ông H cho rằng đơn giá bồi thường đất ở 5.000.000 m
2
/đồng là thấp, chưa phù
hợp với đơn giá đất ở thị trường, trong khi đó thu tiền sử dụng đất tái định cư với
đơn giá cao (9.000.000 m
2
/đồng và 10.500.000 m
2
/đồng), Hội đồng xét xử thấy
rằng trong trường hợp này theo quy định tại mục 13, phần I, giải đáp số 02/QĐ/-
TANDTC ngày 19/9/2016 thì nội dung này là không có cơ sở để xem xét giải
quyết, không tiến hành định giá quyền sử dụng đất.
[4.5]. Do ông Trương Hắc H không nhận tiền bồi thường nên UBND thành
phố đã gửi số tiền bồi thường, hỗ trợ 2.542.128.313 đồng nêu trên vào tài khoản
tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước B2.
Ngày 23/5/2022, UBND thành phố đã tiến hành tổ chức cưỡng chế thu hồi
đất theo Quyết định số 10723 đối với hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương
Hắc H đại diện kê khai.
Tại khoản 2 Điều 71 Luật Đất đai ngày 29/11/2013 quy định về các điều
kiện để thực hiện việc cưỡng chế thu hồi đất như sau:
“... a) Người có đất thu hồi không chấp hành quyết định thu hồi đất sau
khi Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban M1 cấp xã nơi có đất thu hồi và tổ chức làm
nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng đã vận động, thuyết phục;
b) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã được niêm yết
công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, địa điểm sinh hoạt chung của khu
dân cư nơi có đất thu hồi;
c) Quyết định cưỡng chế thực hiện quyết định thu hồi đất đã có hiệu lực thi
hành;
21
d) Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế thực hiện quyết
định thu hồi đất có hiệu lực thi hành.
Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối không nhận quyết định cưỡng chế
hoặc vắng mặt khi giao quyết định cưỡng chế thì Ủy ban nhân dân cấp xã lập
biên bản.”
Căn cứ quy định trên, ngày 21/12/2021, Chủ tịch UBND thành phố ban
hành Quyết định số 10723 về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với diện tích
711,5m
2
thuộc toàn bộ phần thửa đất số 259 do hộ bà Lê Thị M (chết), con
Trương Hắc H đại diện kê khai đang sử dụng để giải phóng mặt bằng thực hiện
Dự án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q là đúng quy định.
[4.6]. Ông H khiếu nại không thu hồi đất (để lại đất như hiện trạng) của gia
đình ông do ảnh hưởng giải phóng mặt bằng Dự án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư
K, phường N, thành phố Q. Trường hợp Nhà nước thu hồi đất, ông H yêu cầu
giải quyết như sau:
- Gia đình ông thực tế sử dụng diện tích 1.000m
2
(nộp tiền thuế đất hàng
năm) nhưng khi Nhà nước thực hiện dự án, đo đạc xác định diện tích thu hồi là
711,5m
2
, còn thiếu diện tích 288,5m
2
nên ông đề nghị đo đạc xác định lại diện
tích để tính toán bồi thường, hỗ trợ theo quy định.
- Đơn giá bồi thường đất ở 5.000.000 đồng/m
2
là thấp, chưa phù hợp so với
đơn giá đất ở thị trường, trong khi đó thu tiền sử dụng đất tái định cư với đơn giá
cao (9.000.000 đồng/m
2
và 10.500.000 đồng/m
2
)
Ngày 08/4/2022, Chủ tịch UBND thành phố ban hành Quyết định số
2150/QĐ-UBND về việc giải quyết khiếu nại lần đầu đối với hộ bà Lê Thị M
(chết), con là ông Trương Đắc H3 đại diện kê khai (ở tổ D, khu V, phường N,
thành phố Q) với nội dung “Không công nhận nội dung đơn của hộ bà Lê Thị M
(chết), con là ông Trương Hắc H đại diện kê khai, đề nghị Nhà nước để lại như
hiện trạng, không thu hồi đất của gia đình ông trong Dự án xây dựng Khu dân cư
K, phường N, thành phố Q”.
Không đồng ý với việc giải quyết của Chủ tịch UBND thành phố, ông H
có đơn khiếu nại lần hai. Ngày 18/12/2023, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành
Quyết định số 4678 về việc giải quyết khiếu nại lần hai đối với ông H “Không
công nhận toàn bộ nội dung khiếu nại nêu trên của ông Trương Đắc H3 (đại diện
hộ gia đình bà Lê Thị M), vì không có cơ sở để xem xét, giải quyết. Chủ tịch
UBND thành phố ban hành Quyết định số 2150 là đúng theo quy định của pháp
luật”.
Theo nhận định trên, thấy rằng, việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng đối với hộ bà Lê Thị M (chết), con Trương Hắc H đại diện kê
khai để xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành
phố Q là đúng quy định.
22
Do đó, Quyết định số 2150 và Quyết định số 4678 được ban hành có căn
cứ, đúng pháp luật.
[5]. Căn cứ Quyết định số 717/QĐ-UBND ngày 04/2/2016 của UBND
thành phố về việc phê duyệt đồ án quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/500 và ban
hành Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch công trình Khu dân cư K, phường
N, thành phố Q và Quyết định số 2818/QĐ-UBND ngày 06/5/2019 của UBND
thành phố về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/500 công
trình: Khu dân cư K, phường N, thành phố Q. Trên cơ sở đồ án quy hoạch chi tiết
xây dựng tỷ lệ 1/500 công trình Khu dân cư K, phường N, thành phố Q được phê
duyệt. UBND thành phố xây dựng và tổ chức triển khai dự án Khu dân cư K,
phường N; cụ thể: Thực hiện thông báo, niêm yết, lấy ý kiến, kiểm kê, lập
phương án bồi thường đất đai, nhà cửa, vật kiến trúc, cây cối, hoa màu, mồ mả,...
để giải phóng mặt bằng trong phạm vi quy hoạch. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng đã tổ chức kiểm kê, lập phương án bồi thường, hỗ trợ giải
phóng mặt bằng theo đúng quy định, hộ bà Lê Thị M (chết), con ông Trương Hắc
H đại diện kê khai, thường trú tổ D, Khu V, phường N là hộ có đất bị thu hồi với
diện tích 711,5m
2
thuộc toàn phần thửa đất 259, tờ bản đồ số 43 (theo đo đạc
mới).
Theo nhận định tại phần [4] thì Quyết định số 3852; một phần Quyết định
số 3848 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự
án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2
– đợt 4) đối với hộ bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương Hắc H; Quyết định số
10111; Quyết định số 10723; Quyết định số 4678 và Quyết định số 2150 được
ban hành đúng quy định.
[6] Tại phiên toà phúc thẩm, ông Trần Bá N đề nghị Hội đồng xét xử phúc
thẩm xem xét huỷ Bản án sơ thẩm, vì Toà án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, quá trình giải quyét vụ án,
Toà án cấp sơ thẩm đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định, chưa phát hiện
ra vi phạm nghiêm trọng nào làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên đương sự nên không có căn cứ để huỷ Bản án sơ thẩm theo quy định của
Luật tố tụng hành chính.
Từ những vấn đề phân tích, lập luận nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm
thấy rằng, Toà án cấp sơ thẩm xử bác yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hắc H
là có căn cứ và đúng pháp luật; kháng cáo của người khởi kiện không có cơ sở,
không có tài liệu chứng cứ mới làm thay đổi bản chất nội dung vụ án nên không
được chấp nhận, Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Về án phí hành chính phúc thẩm: Tuy kháng cáo không được chấp nhận
nhưng căn cứ quy định tại Điều 2 của Luật Người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều
12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông Trương Hắc H (sinh năm 1961) thuộc
trường hợp người cao tuổi nên được miễn tiền án phí hành chính phúc thẩm.
23
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hét thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính: Bác kháng cáo của
ông Trương Hắc H, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
- Căn cứ vào quy định tại Điều 30, Điều 32, Điều 116, điểm a khoản 2
Điều 193 và Điều 194 của Luật Tố tụng hành chính.
- Căn cứ vào quy định của Luật Khiếu nại số 02/2011/QH13 ngày
11/11/2011; Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19/6/2015; Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền
địa phương ngày 22/11/2019; Luật Đất đai ngày 29/11/2013; Nghị định số
124/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều
và biện pháp thi hành Luật Khiếu nại ngày 11/11/2011; Nghị định số
43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Đất đai; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Thông
tư số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy
trình giải quyết khiếu nại hành chính; Thông tư số 02/2016/TT-TTCP ngày
20/10/2016 của Thanh tra Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
số 07/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ quy định quy
trình giải quyết khiếu nại hành chính; Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày
02/6/2014 của Bộ trưởng Bộ T3 quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển
mục đích sử dụng đất, thu hồi đất; Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT ngày
30/6/2014 của Bộ trưởng Bộ T3 quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 04/2019/QĐ-UBND ngày
14/02/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B; Quyết định số 65/2019/QĐ-UBND ngày
18/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B; Quyết định số 21/2017/QĐ-UBND ngày
19/5/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh B; Quyết định số 61/2019/QĐ-UBND ngày
16/12/2019 của Ủy ban nhân dân tỉnh B.
- Căn cứ quy định tại Điều 2 của Luật Người cao tuổi; điểm đ khoản 1
Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường Vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hắc H về việc yêu
cầu Tòa án hủy các quyết định hành chính sau:
- Quyết định số 3852/QĐ-UBND ngày 02/6/2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố Q, tỉnh Bình Định.
24
- Một phần Quyết định số 3848/QĐ-UBND ngày 02/6/2021 của Ủy ban
nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định về việc phê duyệt phương án bồi thường,
hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư K,
phường N, thành phố Q (giai đoạn 2 – đợt 4) đối với hộ bà Lê Thị M (chết), con
là ông Trương Hắc H.
- Quyết định số 10111/QĐ-UBND ngày 06/12/2021 của Ủy ban nhân dân
thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Quyết định số 10723/QĐ-UBND ngày 21/12/2021 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định.
- Quyết định số 4678/QĐ-UBND ngày 18/12/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh B.
- Quyết định số 2150/QĐ-UBND ngày 08/4/2022 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Hắc H về việc yêu
cầu Tòa án buộc Ủy ban nhân dân thành phố Q, tỉnh Bình Định phê duyệt bổ
sung phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng Dự án xây dựng hạ tầng
kỹ thuật Khu dân cư K, phường N, thành phố Q (giai đoạn 2 – đợt 4) đối với hộ
bà Lê Thị M (chết), con là ông Trương Đắc H3 như sau:
Về đất: Yêu cầu bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích thực tế là 1.000m
2
.
Về tái định cư: Đề nghị giao lại cho ông phần đất còn lại sau khi trừ đi
diện tích đất bị ảnh hưởng do làm đường, vỉa hè (nếu có).
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Trương Hắc H được miễn.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Lê Văn Thường Võ Thị Ngọc Dung
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Cường
25
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Bình Định;
- VKSND tỉnh Bình Định ;
- Cục THADS tỉnh Bình Định ;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Cường
26
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Đặng Kim Nhân Trần Quốc Cường
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Cường
27
28
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Phạm Tấn Hoàng Nguyễn Văn Tào
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Tồn
29
30
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 77/2025/DS-PT ngày 25/02/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm