Bản án số 491/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 491/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 491/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 491/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 491/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Long |
| Số hiệu: | 491/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Bà Huỳnh Thị Vân tranh chấp quyền sử dụng đất với bà Nguyễn Thị Lung |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH VĨNH LONG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 491/2025/DS-PT
Ngày: 26-9-2025
V/v “Tranh chấp quyền sử dụng đất”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Rẻn
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Chí Đức
Ông Nguyễn Thế Hồng
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thùy Dương - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa: Bà
Lê Thị Hồng Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 250/2025/TLPT-DS ngày 31 tháng 7 năm
2025 về tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2025/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 9 -
Vĩnh Long) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 387/2025/QĐ-PT ngày
19 tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị V, sinh năm 1970
Địa chỉ: Số A, Khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số A, Khu phố F, xã M, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh
năm 1978
Địa chỉ: Số A, Khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Số A, Khu phố F, xã M, tỉnh Vĩnh Long.
2
- Bị đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1962
Địa chỉ: Tổ N, Khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Địa chỉ hiện nay: Tổ N, Khu phố F, xã M, tỉnh Vĩnh Long.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn:
1. Bà Nguyễn Thị Diễm C, sinh năm 1983
2. Bà Nguyễn Thị Loan T1, sinh năm 1997
Cùng địa chỉ hiện nay: Số A, ấp B, phường B, tỉnh Vĩnh Long.
- Người kháng cáo: Bị đơn bà Nguyễn Thị L.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung án sơ thẩm;
Theo đơn khởi kiện đề ngày 05/3/2024 và đơn khởi kiện bổ sung đề ngày
22/8/2024 của nguyên đơn bà Huỳnh Thị V, bản tự khai và các lời trình bày trong
quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy
quyền của nguyên đơn là ông Nguyễn Minh T trình bày:
Bà Huỳnh Thị V là chủ sử dụng thửa đất số 148, tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại
khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre có nguồn gốc do ông bà để lại cho bà
Huỳnh Thị T2 (bà ngoại của bà V), bà T2 cho bà V sử dụng. Tiếp giáp với thửa đất
này có thửa đất số 276, tờ bản đồ số 29 của bà Nguyễn Thị L, đất bà L có nguồn
gốc như thế nào bà V không biết. Trong quá trình sử dụng đất, bà L lấn chiếm qua
phần đất của bà V, tự đóng trụ ranh giữa thửa đất của bà V và bà L, làm hàng rào
nhưng không thông báo cho bà V biết.
Về quá trình sử dụng đất: trước đây thời gian nào không nhớ rõ bà ngoại của
bà Huỳnh Thị V là bà Huỳnh Thị T2 có chuyển nhượng một phần thửa đất số 148
nêu trên cho bà V bán tàu hũ (đã chết, không biết rõ họ tên). Sau đó, bà V chuyển
nhượng cho bà L1 (không rõ họ tên, năm sinh, địa chỉ). Đồng thời, bà Huỳnh Thị
T2 có chuyển nhượng cho bà L1 nêu trên một phần thửa đất số 148. Tuy nhiên, do
tổng diện tích đất bà L1 nhận chuyển nhượng không đủ diện tích tách thửa nên bà
V và bà L1 có thỏa thuận để giải quyết sau. Do bà V và bà L có tranh chấp nên chờ
kết quả giải quyết xong vụ án này thì bà V và bà L1 sẽ tự thỏa thuận với nhau về
phần đất bà L1 nhận chuyển nhượng, không có tranh chấp trong vụ kiện này. Mặt
khác, bà V cũng không biết rõ họ tên, năm sinh, địa chỉ của bà L1 để cung cấp cho
Tòa án.
Cách đây khoảng 10 tháng, khi bà V muốn làm hàng rào xung quanh đất và
có nhờ đo đạc phần thửa đất số 148 của bà V thì phát hiện bà L lấn chiếm của bà
3
V. Do điều kiện đi làm ăn xa nên khi bà L xây dựng hàng rào, sân đal trên đất thì
bà V không biết nên không có ngăn cản.
Nay bà Huỳnh Thị V khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị L phải có nghĩa vụ
trả lại cho bà V phần đất có diện tích 65,1m
2
thuộc một phần thửa đất số 148
(148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa 148b-3 diện tích 22m
2
,
thửa 148a-2 diện tích 22,8m
2
), tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại khu phố F, thị trấn M,
huyện M, tỉnh Bến Tre. Bà V yêu cầu bà L trả đất, không đồng ý để bà L trả giá trị
đất và không đồng ý bồi thường giá trị các tài sản, công trình kiến trúc trên đất
tranh chấp cho bà L.
Bà V không đồng ý yêu cầu phản tố của bà L vì toàn bộ diện tích thửa đất số
148, tờ bản đồ số 29, tọa lạc khu phố F, thị trấn M, huyện M là của bà V, thuộc
quyền quản lý, sử dụng hợp pháp của bà V được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 2006 đúng quy định pháp luật.
Bà V đồng ý với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc, định giá và
trích lục, không có ý kiến gì khác.
Tại đơn phản tố đề ngày 19/5/2025, bản tự khai của bị đơn bà Nguyễn Thị L
và các lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ
thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị L là ông Nguyễn
Thành V1 trình bày:
Bà Nguyễn Thị L là chủ sử dụng thửa đất số 276, tờ bản đồ số 29, diện tích
305m
2
, tọa lạc tại khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre. Tiếp giáp với thửa
đất này có thửa đất số 148, tờ bản đồ số 29 của bà Huỳnh Thị V. Đất có nguồn gốc
do vợ chồng bà L nhận chuyển nhượng, cụ thể:
+ Giấy tay thứ nhất: Ngày 04/10/1996, bà Huỳnh Thị T2 (bà ngoại bà V)
chuyển nhượng cho ông Trương Văn H. Sau đó, ông H chuyển nhượng cho ông
Phan Trung T3 vào ngày 05/3/1997. Ông T3 chuyển nhượng lại cho ông Điều Văn
T4 (chồng bà L) vào ngày 10/3/1997, đất chiều ngang 8m, chiều dài 20m, diện tích
160m
2
.
+ Giấy tay thứ hai: Giấy tay mua bán ngày 27/02/1997, bà Huỳnh Thị T2 (bà
ngoại bà V) chuyển nhượng cho ông Điều Văn T4 đất chiều ngang 8m, chiều dài
8m, diện tích 64m
2
và một khúc bờ còn lại giáp đất bà Huỳnh Thị V, bà Vân Tàu
H1, ông S, ông M (thuộc khu vực cửa ra vào hiện nay của bà L, không biết rõ diện
tích).
Từ việc mua bán giấy tay lần thứ nhất và lần thứ hai theo họa đồ trích đo
thửa 148 ngày 14/01/2025 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M xác
định không phù hợp với giấy tờ mua bán (điểm 36-37) không đủ 8m chiều ngang.
4
Thửa đất số 276 ban đầu đất cấp cho hộ ông Điều Văn T4, sau khi ông T4 chết đất
được cấp cho bà L. Trong quá trình sử dụng, bà L xây nhà ở, hàng rào nhưng
không ai tranh chấp. Thời gian gần đây, bà V có phát sinh tranh chấp với bà L.
Ngoài ra, theo bà L được biết thửa đất số 148 có một phần đất đã chuyển
nhượng cho bà L1 là phần tiếp giáp với thửa đất số 276 của bà L nhưng bà L1 chưa
làm thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do đó, đất của bà L giáp
đất bà L1, không có giáp đất bà V. Tuy nhiên, bà L không biết rõ họ tên, năm sinh,
địa chỉ nơi cư trú của bà L1.
Bà L khẳng định phần đất tranh chấp là của bà L. Tuy nhiên, để giải quyết
hài hòa mối quan hệ tình làng nghĩa xóm bà L đồng ý giao lại cho bà V thửa 148a-
2 diện tích 22,8m
2
. Đồng thời, yêu cầu Tòa án công nhận cho bà L được nhận các
thửa 148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa 148b-3 diện tích
22m
2
, tổng diện tích 42,3m
2
và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi một phần
diện tích thửa 148 nêu trên đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà V để
cấp cho bà L. Trong trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, bà L yêu cầu bà V bồi thường giá trị các công trình kiến trúc trên đất. Tuy
nhiên, nếu Tòa án công nhận phần đất này cho bà V thì bà L không có lối đi ra lộ
công cộng và ngôi nhà của bà L sẽ bị ảnh hưởng đến kết cấu.
Bà L đồng ý với kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc và định giá tài
sản, không có ý kiến gì khác.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn bà Nguyễn Thị L trình
bày:
Ông thống nhất hoàn toàn phần trình bày của đại diện theo ủy quyền của bị
đơn. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở và yêu cầu phản tố của
bị đơn là hoàn toàn có căn cứ. Bởi phần đất tranh chấp này là của bà L có được do
nhận chuyển nhượng và quản lý sử dụng từ đó cho đến nay. Khi bà L xây dựng nhà
ở, hàng rào, sân đal, bà V biết nhưng không ngăn cản. Ông đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, công nhận cho bị đơn phần đất có diện
tích 42,3m
2
. Đồng thời, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi một phần diện
tích thửa 148 nêu trên đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà V để cấp
cho bà L theo quy định.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2025/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 9 -
Vĩnh Long) đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Thị V về tranh chấp
quyền sử dụng đất.
5
1.1. Buộc bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ tháo dỡ hàng rào lưới B40 để hoàn
trả cho bà Huỳnh Thị V phần đất có diện tích 65,1m
2
, thuộc một phần thửa đất số
148 (148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa 148b-3 diện tích
22m
2
, thửa 148a-2 diện tích 22,8m
2
), tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại khu phố F, thị trấn
M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
(Có kèm theo Hồ sơ trích đo hiện trạng sử dụng đất ngày 14/01/2025 của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M và là một bộ phận gắn liền, không
tách rời với bản án)
1.2. Buộc bà Huỳnh Thị V có nghĩa vụ bồi thường cho bà Nguyễn Thị L giá
trị hàng rào và sân đan tổng số tiền 8.166.240 đồng (Tám triệu một trăm sáu mươi
sáu nghìn hai trăm bốn mươi đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Nguyễn Thị L về việc yêu
cầu công nhận các thửa 148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa
148b-3 diện tích 22m
2
, tổng diện tích 42,3m
2
và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền
thu hồi một phần diện tích thửa 148 nêu trên đã cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà V để cấp cho bà L.
Ngoài ra, quyết định của bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, nghĩa vụ chịu
án phí, quyền kháng cáo, quyền và nghĩa vụ thi hành án của các đương sự .
Ngày 16/6/2025, bị đơn bà Nguyễn Thị L kháng cáo Bản án dân sự sơ thẩm
số: 87/2025/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày
Nam (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 9 - Vĩnh Long) yêu cầu Tòa án cấp phúc
thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của
bà V.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị đơn thay đổi yêu cầu kháng cáo theo hướng yêu
cầu được tiếp tục quản lý, sử dụng phần đất nguyên đơn tranh chấp và trả giá trị
đất thành tiền theo giá Hội đồng định giá đã định cho nguyên đơn với các lý do:
Do đất giữa nguyên đơn và bị đơn không có ranh giới, mốc giới phân định rõ ràng
nên dẫn đến việc nhầm lẫn vị trí trong quá trình sử dụng. Phần đất tranh chấp tại vị
trí thửa 148a-3 là phần đất lối đi nguyên đơn đang sử dụng để đi vào nhà, ngoài lối
đi này bị đơn không có lối đi nào khác để vào nhà. Vị trí thửa 148b-3 chiếm vị trí
trước sân nhà cách cửa nhà bị đơn 1,23m nếu buộc bị đơn giao trả bằng đất sẽ ảnh
hưởng đến thẩm mỹ căn nhà, giá trị quyền sử dụng của cả 2 thửa đất; vị trí thửa
148b-2 sát chân nền căn nhà bị đơn, trước đây là phần đất mương đã dược bồi lắp
nếu giao trả người khác sử dụng phần đất này có sụt lún xảy ra không được bồi
đắp, khắc phục kịp thời sẽ có khả năng ảnh hưởng đến kết cấu chân tường căn nhà
đôi khi cả căn nhà của bị đơn.
Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không đồng ý với kháng cáo của
6
bị đơn về việc trả đất bằng giá trị, yêu cầu Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ
thẩm, buộc bị đơn phải tháo dỡ, di dời tài sản trả lại phần đất lấn chiếm cho
nguyên đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa phát
biểu ý kiến:
Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy định
của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị L,
giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2025/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 9 -
Vĩnh Long).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày
của các đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến đề nghị của
Kiểm sát viên, xét kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị L; Hội đồng xét xử nhận
định:
Về tố tụng:
[1.1] Về quyền khởi kiện và quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn bà
Huỳnh Thị V cho rằng quyền lợi của bà bị xâm phạm bởi hành vi không trả đất của
bị đơn bà Nguyễn Thị L nên khởi kiện. Bị đơn bà Nguyễn Thị L có yêu cầu phản
tố về việc công nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nguyên đơn kiện đòi. Căn
cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn và nội dung
vụ án cần giải quyết, Tòa án xác định nguyên đơn có quyền khởi kiện, bị đơn có
quyền phản tố theo quy định tại Khoản 2 Điều 68, Điều 72, Điều 186 của Bộ luật
Tố tụng dân sự và vụ án có quan hệ pháp luật tranh chấp là “Tranh chấp quyền sử
dụng đất” theo quy định tại khoản 9 Điều 26 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Phần đất đang tranh chấp tọa lạc tại
thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c
khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định vụ kiện thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam nay là Tòa án nhân dân Khu
vực 9 - Vĩnh Long.
[1.3] Tại phiên tòa sơ thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
thay đổi yêu cầu khởi kiện so với đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung, nội dung
7
thay đổi yêu cầu khởi kiện tại phiên tòa là không vượt quá phạm vi khởi kiện ban
đầu nên được Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận là phù hợp theo quy định tại
khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.4] Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị L xác định bà
L thay đổi yêu cầu kháng cáo: yêu cầu Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
nhưng buộc bị đơn trả bằng giá trị đất để bị đơn được tiếp tục quản lý, sử dụng đối
với phần đất nguyên đơn tranh chấp là không ngoài phạm vi kháng cáo ban đầu,
căn cứ khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử chấp
nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
Về nội dung:
Phần đất tranh chấp qua đo đạc thực tế có diện tích 65,1m
2
thuộc một phần
thửa đất số 148, tờ bản đồ số 29 (gồm thửa 148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3
diện tích 10,7m
2
; thửa 148b-3 diện tích 22m
2
; thửa 148a-2 diện tích 22,8m
2
) tổng
diện tích là 1.027,5m
2
tọa lạc tại khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Thửa đất trên nguyên đơn bà Huỳnh Thị V đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Bà V cho rằng trong quá trình sử dụng, phần đất trên đã bị chủ sử dụng
đất liền kề là bà Nguyễn Thị L lấn chiếm, xây dựng hàng rào, không chịu giao trả
lại cho bà V. Vì vậy, bà Huỳnh Thị V khởi kiện yêu cầu bà Nguyễn Thị L trả lại
phần đất có diện tích 65,1m
2
, thuộc một phần thửa đất số 148, tờ bản đồ số 29, tọa
lạc tại khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Bị đơn bà Nguyễn Thị L cho rằng phần đất tranh chấp có nguổn gốc được
ông T4 là chồng bà nhận chuyển nhượng trước đây, đăng ký kê khai và được cấp
giấy chứng nhận tại thửa đất số 276, tờ bản đồ số 29, diện tích 305m
2
. Bà L cho
rằng bà xây dựng hàng rào và sử dụng đất làm đường đal là trên đất của bà, bà
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà V, yêu cầu phản tố công nhận các thửa
148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa 148b-3 diện tích 22m
2
,
tổng diện tích 42,3m
2
cho bà và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi một phần
diện tích thửa 148 nêu trên đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà V để
cấp cho bà.
Xét yêu cầu của đôi bên cũng như kháng cáo của bà Nguyễn Thị L, Hội
đồng xét xử thấy rằng:
[1] Về quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
[1.1] Căn cứ theo hồ sơ sao lục số 504 ngày 06/6/2024 của Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai huyện M về quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất đối với thửa đất số 276, tờ bản đồ số 29, tổng diện tích 305m
2
(cấp bà Nguyễn
Thị L) và thửa đất số 148, tờ bản đồ số 29, diện tích 1.027,5m
2
(cấp cho bà Huỳnh
8
Thị V), tọa lạc thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre, thấy rằng quy trình cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất của bà L, bà V là đúng trình tự, thủ
tục theo quy định pháp luật.
[1.2] Tại thời điểm xét cấp giấy chứng nhận thửa đất của bà L, bà L có khiếu
nại về kết quả đo đạc, xét duyệt đăng ký đất và được Ủy ban nhân dân thị trấn M
giải quyết; Kết quả đo đạc xác định diện tích thửa đất 276, tờ bản đồ số 29, diện
tích là 305m
2
, bà L đồng ý kết quả giải quyết khiếu nại. Vì vậy, việc bà L trình bày
cho rằng thửa đất số 276 là do vợ chồng bà nhận chuyển nhượng của ông Phan
Trung T3 diện tích 160m
2
, nhận chuyển nhượng của bà Huỳnh Thị T2 (bà ngoại bà
V) phần đất diện tích 64m
2
và một bờ dài còn lại không rõ diện tích cùng một phần
đất chuyển nhượng của bà L1 (đất bà L1 chuyển nhượng của bà V tại thửa 148
nhưng chưa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) nên diện tích thửa
đất 276 của bà L có cả phần diện tích đất đang tranh chấp 65,1m
2
là không có căn
cứ xem xét.
[2] Xét về diện tích và thực tế sử dụng đất của các bên:
[2.1] Căn cứ theo Hồ sơ trích đo hiện trạng sử dụng đất ngày 14/01/2025 do
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M cung cấp thể hiện: Thửa đất số 276
theo bản đồ gồm thửa 276a-1 diện tích 205,3m
2
, thửa 276a-2 diện tích 4,5m
2
, thửa
276a-3 diện tích 5,9m
2
, thửa 276a-4 diện tích 86,8m
2
và thửa 276b diện tích 2,5m
2
,
tổng diện tích 305m
2
đúng với diện tích được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
[2.2] Trong khi đó, thửa 148 nếu tính cả phần tranh chấp hiện nay mới đúng
diện tích 1.027,5m
2
bà V được cấp theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cụ
thể: phần không có tranh chấp diện tích 962,4m
2
, phần đang tranh chấp gồm: 148b-
2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa 148b-3 diện tích 22m
2
, thửa
148a-2 diện tích 22,8m
2
.
[2.3] Việc bà L cho rằng thửa đất số 148a-2, 148a-3, 148b-2 và 148b-3 thuộc
thửa đất số 276 trước đây đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông
T4 là không có căn cứ bởi lẽ: bà L cho rằng thửa đất số 276, tờ bản đồ số 29, diện
tích 305m
2
có nguồn gốc nhận thừa kế từ ông Điều Văn T4 (chồng bà L) vào năm
2005. Tại trích lục bản đồ năm 2007 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện M thể hiện thửa đất số 276 nêu trên của ông Điều Văn T4 có chiều dài các
cạnh đúng như giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà L và hồ sơ trích đo
hiện trạng sử dụng đất ngày 02/8/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai
huyện M. Qua đó cho thấy việc bà L xây dựng hàng rào đã lấn chiếm vào một phần
thửa đất 148 của bà V được xác định ở các thửa 148a-2, 148a-3, 148b-2 và 148b-3.
Vì vậy, Hội đồng xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bác
9
yêu cầu phản tố của bị đơn là phù hợp.
[3] Xét trình bày của bà L cho rằng thửa 148 của bà V có một phần đã
chuyển nhượng cho bà L1 (nhưng bà L1 chưa làm thủ tục cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất) và bà L1 đã chuyển nhượng lại cho bà L; Cũng như ý kiến của
bà V về việc cho rằng trước đây bà ngoại bà là bà Huỳnh Thị T2 có chuyển
nhượng một phần thửa đất 148 cho bà V bán tàu hũ (đã chết, không biết rõ họ tên),
sau đó bà V bán tàu hũ chuyển nhượng cho bà L1 (không rõ họ tên, năm sinh, địa
chỉ). Đồng thời, bà T2 cũng có chuyển nhượng cho bà L1 thêm một phần thửa 148.
Tuy nhiên, do tổng diện tích đất bà L1 nhận chuyển nhượng không đủ diện tích
tách thửa nên bà V và bà L1 có thỏa thuận giải quyết sau, thấy rằng: Việc các
đương sự cho rằng thửa 148 có một phần chuyển nhượng cho bà L1, nhưng hiện
nay không ai cung cấp được họ tên, năm sinh, địa chỉ liên lạc của bà L1 nên không
có căn cứ xác định việc chuyển nhượng một phần thửa 148 cho bà L1. Trong khi
đó, thửa đất số 148 vẫn do bà V quản lý, đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, bà V cho rằng giữa bà và bà L1 sẽ tự thỏa thuận giải quyết nên xác định bà V
có quyền tranh chấp. Trường hợp bà L1 và bà V, bà L có tranh chấp sẽ giải quyết
trong vụ án khác.
[4] Đối với thửa 148d, bà V và chủ sử dụng đất liền kề thống nhất ranh giới
theo hiện trạng và không có tranh chấp nên không xem xét giải quyết.
[5] Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ và biên bản định giá tài sản cùng
ngày 18/7/2024 và 26/12/2024 thể hiện trên phần đất tranh chấp có các công trình
kiến trúc của bà L xây dựng gồm:
Hàng rào: trụ đà bê tông cốt thép, tường xây lửng cao 0,8m, phía trên tường
lắp lưới B40. Diện tích: 0,8m x 2,2m = 17,6m
2
. Đơn giá: 1.057.000 đồng/m
2
thành
tiền: 7.441.280 đồng.
Sân đường đan bê tông không cốt thép. Diện tích: 9,2m
2
. Đơn giá: 197.000
đồng/m
2
thành tiền: 724.960 đồng.
Thấy rằng: cấp sơ thẩm buộc bà L tháo dỡ hàng rào để giao trả cho bà V
phần đất có diện tích 65,1m
2
thuộc một phần thửa đất số 148, tờ bản đồ số 29, tọa
lạc tại khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre, đồng thời buộc bà V phải có
nghĩa vụ bồi hoàn cho bà L giá trị các công trình kiến trúc bà L đã xây dựng trên
đất tranh chấp theo giá Hội đồng định giá đã định tổng cộng 8.166.240 đồng là phù
hợp. Bởi lẽ như nhận định ở phần trên có căn cứ xác định phần đất tranh chấp là
thuộc thửa đất số 148, tờ bản đồ số 29 của bà V, không phải của bà L. Do không có
ranh giới rõ ràng giữa hai thửa đất số 148, 276, tờ bản đồ số 29 và phía bà V cũng
không quản lý thửa đất 148 chặt chẽ nên đã không ngăn cản kịp thời khi bị bà L
lấn chiếm xây hàng rào và công trình kiến trúc trên đất nhưng lỗi trong việc dẫn
10
đến tranh chấp là thuộc về phía bà L. Mặc dù hiện nay phía bị đơn bà L đồng ý
phần đất tranh chấp là thuộc quyền quản lý, sử dụng của nguyên đơn, yêu cầu trả
lại cho nguyên đơn bằng giá trị nhưng nguyên đơn kiên quyết không đồng ý, mặt
khác phần hàng rào và đường đan có giá trị thấp và có thể tháo dỡ, di dời được. Vì
vậy, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu của bà L về việc cho bà L trả giá trị đất
cho bà V để bà L được tiếp tục sử dụng phần đất có diện tích 65,1m
2
thuộc một
phần thửa đất số 148 (148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa
148b-3 diện tích 22m
2
; thửa 148a-2 diện tích 22,8m
2
), tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại
khu phố F, thị trấn M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
Từ những nhận định trên, xét thấy cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn là phù hợp, kháng cáo của bà L cũng như trình bày của người đại
diện theo ủy quyền của bà L là không có căn cứ nên không được chấp nhận, giữ
nguyên Bản án sơ thẩm số: 87/2025/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm 2025 của Tòa án
nhân dân huyện Mỏ Cày Nam (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 9 - Vĩnh Long).
[6] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long là phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[7] Án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà L phải
chịu án phí theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuy nhiên bà L là người cao tuổi và có đơn xin miễn
án phí nên bà L được miễn nộp án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị L.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 87/2025/DS-ST ngày 04 tháng 6 năm
2025 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Nam (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 9
- Vĩnh Long).
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 85, 147, 148, 157, 244 của Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015; Điều 166 của Bộ luật Dân sự năm 2015; các Điều 166, 167, 202,
203 của Luật Đất đai năm 2013; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Huỳnh Thị V về tranh chấp
11
quyền sử dụng đất.
1.1. Buộc bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ tháo dỡ hàng rào lưới B40 để hoàn
trả cho bà Huỳnh Thị V phần đất có diện tích 65,1m
2
thuộc một phần thửa đất số
148 (148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa 148b-3 diện tích
22m
2
; thửa 148a-2 diện tích 22,8m
2
), tờ bản đồ số 29, tọa lạc tại khu phố F, thị trấn
M, huyện M, tỉnh Bến Tre.
(Có kèm theo Hồ sơ trích đo hiện trạng sử dụng đất ngày 14/01/2025 của
Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện M và là một bộ phận gắn liền, không
tách rời với bản án)
1.2. Buộc bà Huỳnh Thị V có nghĩa vụ bồi thường cho bà Nguyễn Thị L giá
trị hàng rào và sân đan tổng số tiền 8.166.240 đồng (Tám triệu một trăm sáu mươi
sáu nghìn hai trăm bốn mươi đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Nguyễn Thị L về việc yêu
cầu công nhận các thửa 148b-2 diện tích 9,6m
2
; thửa 148a-3 diện tích 10,7m
2
; thửa
148b-3 diện tích 22m
2
, tổng diện tích 42,3m
2
và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền
thu hồi một phần diện tích thửa 148 nêu trên đã cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà V để cấp cho bà L.
3. Về chi phí tố tụng: Buộc bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ hoàn trả cho bà
Huỳnh Thị V chi phí đo đạc, định giá tài sản và trích lục số tiền 9.479.000 đồng
(Chín triệu bốn trăm bảy mươi chín nghìn đồng).
4. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà Nguyễn Thị L được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm do thuộc diện người
cao tuổi và có đơn xin miễn.
Bà Huỳnh Thị V phải chịu 408.000 đồng (Bốn trăm lẻ tám nghìn đồng) án
phí dân sự có giá ngạch nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000
đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà V đã nộp theo biên lai thu số 0005328 ngày
16/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỏ Cày Nam (nay là Phòng Thi
hành án dân sự Khu vực 9 – Vĩnh Long) nên bà V phải nộp thêm 108.000 đồng
(Một trăm lẻ tám nghìn đồng) tại Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 9 - Vĩnh
Long.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị L là người cao tuổi và có
đơn xin miễn án phí nên bà L được miễn nộp án phí phúc thẩm.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi
hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu
cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho
người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn
12
phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định
tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
- VKSND tỉnh Vĩnh Long; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND Khu vực 9 - Vĩnh Long;
- Phòng THADS Khu vực 9 - Vĩnh Long;
- Phòng GĐ, KT, TT & THA TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
Nguyễn Thị Rẻn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 21/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 02/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm