Bản án số 217/2025/DS-PT ngày 30/09/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 217/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 217/2025/DS-PT ngày 30/09/2025 của TAND tỉnh Phú Thọ về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Phú Thọ
Số hiệu: 217/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH PHÚ THỌ
Bản án số: 217/2025/DS-PT
Ngày 30 - 9- 2025
V/v Tranh chấp kiện đòi tài sản.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Các Thẩm phán: Ông Vũ Văn Mạnh và bà Nguyễn Thị Thu Hiền
- Thư phiên toà: Nguyễn Thu Mai - Thư Toà án nhân dân tỉnh
Phú Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia phiên toà:
Hoàng Thị Tuyết - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ (cơ
sở 2) xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ số: 60/2025/TLPT-DS ngày 15
tháng 8 năm 2023 về việc tranh chấp kiện đòi tài sản. Do Bản án dân sự sơ thẩm
số 11/2023/DS-ST ngày 23 tháng 6 năm 2023 của Toà án nhân dân thành phố
Vĩnh Yên (nay là a án nhân dân khu vực 9 - Phú Thọ) bị kháng cáo. Theo
quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2023/QĐ-PT ngày 15 tháng 11 năm 2023
giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Phạm Bá L, sinh năm 1948; địa chỉ: Tổ dân phố thôn
B, thị trấn G, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nay là thôn B, B, tỉnh Phú Thọ (có
mặt);
Người đại diện hợp pháp của ông Phạm Bá L: Triệu Thị Bích L1, sinh
năm 1983; địa chỉ: Số E, đường N, phường Đ, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nay
là số E, đường N, phường V, tỉnh Phú Thọ (có mặt);
2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1960; địa chỉ: Số nhà C, đường C,
phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nay số C đường C, phường V, tỉnh
Phú Thọ (có mặt);
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà Phạm Thị X1:
- Ông Trần Xuân Đ (có mặt) ông Tiến T (vắng mặt) Luật Văn
phòng L5, thuộc Đoàn luật thành phố H; địa chỉ: Số C đường T, phường Đ,
quận B, thành phố Hà Nội; nay là 37/46 đường T, phường P, thành phố Hà Nội;
- Ông Nguyễn Mạnh T1 (có mặt) ông Hoàng Văn T2 (có mặt) Luật
Công ty TNHH S, thuộc Đoàn luật sư thành phố H; địa chỉ: Số A đường H, tổ
2
B, phường N, quận C, thành phố Hà Nội; nay là số A đường H, tổ B, phường N,
thành phố Hà Nội;
3. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Đào Thị V, sinh năm 1948 cNguyễn Thị T3, sinh năm 1923;
địa chỉ: Tổ dân phố thôn B, thị trấn G, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc; nay thôn B,
xã B, tỉnh Phú Thọ;
Người đại diện theo y quyền của Đào Thị V cụ Nguyễn Thị T3:
Ông Trần Văn L2, sinh năm 1961; địa chỉ: Số A, đường N, phường L, thành phố
V, tỉnh Vĩnh Phúc; nay là số A, đường N, phường V, tỉnh Phú Th (có mặt);
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của ông L, V cụ T3: Ông
Nguyễn Chí D, Luật sư Công ty L6, Đoàn luật sư tỉnh P (vắng mặt);
3.2. Chị Trần N, sinh năm 1984 (vắng mặt), anh Trần Ngọc L3, sinh
năm 1993 (có mặt); đều địa chỉ: Số C đường C, phường L, thành phố V, tỉnh
Vĩnh Phúc; nay là số C đường C, phường V, tỉnh Phú Thọ;
3.3. Chị Trần Ngọc Y, sinh năm 1986; địa chỉ: Số A đường M, phường M,
quận C, thành phố Nội; nay là số A đường M, phường N, thành phố Nội
(vắng mặt);
4. Người làm chứng:
4.1. Chị Lương Thị D1, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn C, T, huyện S,
tỉnh Vĩnh Phúc; nay là thôn C, xã T, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt);
4.2. Chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1981; địa chỉ: Tổ B, phố H, phường
B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; nay Tổ B, phố H, phường T, tỉnh Phú Thọ
(vắng mặt);
4.3. Anh Trần Văn B, sinh năm 1973; địa chỉ: Phố L, phường H, thành
phố V, tỉnh Vĩnh Phúc; nay là phố L, phường V, tỉnh Phú Thọ (vắng mặt).
5. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Thị X Là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện lời khai tiếp theo, nguyên đơn ông Phạm L
người đại diện theo ủy quyền trình bày: Hộ gia đình ông Phạm Bá L có diện
tích đất 100m
2
thuộc thửa 14, tờ bản đồ QH vị trí đất tại số C đường C, phường
L, thành phố V. Nguồn gốc đất do UBND tỉnh V cấp cho hộ ông Phạm L và
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND thị V (nay
thành phố V) cấp ngày 25/6/2004. Tại thời điểm ông L được Nnước cấp đất
hộ gia đình ông L thành viên trong sổ hộ khẩu ông L, bà Đào Thị V (vợ
ông L) cụ Nguyễn Thị T3 (mđẻ ông L). Ông L mối quan hệ quen biết
thân thiết với bà Nguyễn Thị X. Khoảng thời gian năm 2006, ông L có xây dựng
nhà 03 tầng, xây dựng hết diện tích đất. Do thời điểm này ông L đang công tác,
không có thời gian nên có nhờ bà X đứng ra làm nhà hộ ông L. Khi làm đến đâu
thì ông L đưa tiền cho X đến đấy. Bà X đứng ra thuê thợ làm nhà, thanh toán
toàn bộ tiền vật liệu xây dựng tiền công thợ. Do thời gian đã lâu nên ông L
3
không nhớ làm nhà hết bao nhiêu tiền và do tin tưởng bà X nên khi nào bà X bảo
đưa tiền thì ông L sẽ đưa. Việc đưa tiền cho X không có giấy tờ thể hiện,
không ai chứng kiến đưa theo tiến độ công trình chứ không đưa một lúc.
Sau khi xây dựng xong ông L có cho Nguyễn Thị X cùng các con của X
nhờ trên nhà đất trên và không thỏa thuận gì về thời gian cho ở nhờ, thời hạn trả,
các bên chthỏa thuận bằng miệng không lập thành văn bản. Đến năm 2017
ông L có ý kiến với X muốn đòi lại tài sản nhà đất trên nhưng bà X không
trả vì bà X cho rằng diện tích đất này ông L đã chuyển nhượng cho X rồi. Từ
trước đến nay ông L chưa bao giờ chuyển nhượng diện tích đất này cho X
cũng không bất kỳ giấy tờ về việc nhận tiền chuyển nhượng nhà đất này.
X cho rằng khi đưa tiền nhận chuyển nhượng nhà đất thì ông L đều xác
nhận. Ông L thừa nhận những chữ ký trong quyển sổ do bà X xuất trình cho Hội
đồng xét xử đều chữ của ông L nhưng phần nội dung thể hiện ngày
03/7/2014 ông L nhận của X số tiền 2.354.000.000đ thì nội dung này đã bị
sửa chữa, đây không phải tiền chuyển nhượng nhà đất do X tự ý viết
thêm vào; ngày 24/9/2014 nội dung “Trả tiền mua đất 30 Chu Văn An
1.000.000.000đ” nhưng ông L không xác nhận nội dung này. Ngoài ra X
cho rằng năm 2006 trả cho ông L 300.000.000đ tại cổng huyện nơi ông L
công tác nhưng ông L không thừa nhận việc này.
Ông L đề nghị Tòa án buộc X phải trả lại diện tích đất tài sản trên
đất là 01 ngôi nhà 03 tầng tại số C đường C, phường L, thành phố V.
Bị đơn Nguyễn Thị X cùng người bảo vệ quyền lợi ích hợp
pháp trình bày: X chủ sở hữu đối với ngôi nhà 3 tầng cùng diện tích đất
100m
2
, vị trí đất tại số nhà C đường C, phường L, thành phố V. Về nguồn gốc
đất này do ông Phạm L được Nhà nước cấp nhưng thời điểm m 2005
ông L đã chuyển nhượng cho X với giá 610.000.000đ. Khi chuyển nhượng
các bên không viết giấy tờ gì với nhau do thời điểm này X đang chung
sống như vợ chồng với ông L, hơn nữa ông L đang thư huyện ủy huyện B
cán bộ Đảng viên nên sự tin tưởng nhau tuyệt đối. Hoàn cảnh của X
chồng đã chết, còn ông L cũng nói vợ ông L đã chết. Việc ông L X
chung sống như vợ chồng trất nhiều người biết, chị Lương Thị D1 chị
Nguyễn Thị Thu H kế toán của X biết việc này hàng ngày các chị đến
nhà bà X làm việc đều gặp ông L ăn tại đây. Ngoài ra mẹ đẻ ông L cụ
Nguyễn Thị T3 các anh em nông L, rồi vợ con ông L cũng đều biết
chấp nhận việc này từ năm 2006 đến năm 2016 mọi giỗ Tết trong gia đình
ông L thì X đều đứng ra lo liệu còn vợ ông L thường xuyên ở nhà Chùa. Khi
X dựng vợ, gả chồng cho các con thì ông L đều mặt tham gia như một
thành viên của gia đình X, bằng chứng của việc này X đã cung cấp cho
Hội đồng xét xử vi bằng được lập ngày 18/6/2023 thể hiện ông L chụp ảnh cùng
mẹ con X. Ngoài ra còn những hình ảnh mẹ ông L, mẹ X cùng ông L,
X chụp chung một bức ảnh. Chính mối quan hệ như vậy nên X tin
tưởng ông L nên khi ông L đồng ý chuyển nhượng đất cho X mới không lập
hợp đồng. Do thời gian đã lâu nên X không nhớ cụ thể ngày nào của năm
2006 X cùng chị Lương Thị D1 (khi này là kế toán Công ty TNHH N2 do
4
X làm Giám đốc) đi xe máy đến quan nơi ông L làm việc huyện ủy huyện
B để trả tiền mua đất cho ông L số tiền 300.000.000đ, đưa tiền tại cổng cơ quan
trước đó ông L gọi điện thoại cho X bảo mang tiền đến. Khi đến nơi thì
ông L đi ra cổng lấy tiền do bà X trực tiếp đưa vì ông L bảo đang giờ hành chính
nên không lên phòng làm việc của ông L. Chính vì vậy mà không viết giấy tờ gì,
hơn nữa trước đó ông L đưa cho Quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh V về
việc cấp đất cho ông L (bản gốc) ông L vẫn nói rằng chưa Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Khi nào Giấy chứng nhận thì X mới phải trả nốt
số tiền còn lại 310.000.000đ nhưng thực tế ông L đã Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất năm 2004 nhưng năm 2006 ông L vẫn Quyết định cấp đất (bản
gốc) đưa cho X kèm theo sổ hộ khẩu chmột mình ông L nếu đã được
cấp Giấy chứng nhận thì phải nộp bản gốc quyết định cấp đất. Chính vì do ông L
đưa bản gốc nên X mới tin rằng đất chưa được cấp Giấy chứng nhận. Do
X tin ông L nói vợ đã chết, hơn nữa trong sổ hộ khẩu của ông L giai đoạn từ
năm 2000 đến năm 2016 chỉ có một mình ông L.
Năm 2006 X đã làm ngôi nhà 3,5 tầng kiên cố cùng các con
Trần N, Trần Thị Ngọc Y Trần Ngọc L3 trên nhà đất này đã nhập
khẩu về đây. Hiện nay bà X cùng chị T4 anh L3 vẫn đang ở trên nhà đất này,
còn chị Y Nội. Trước khi làm nhà tại sC C thì mẹ con X nđất
tại khu phố B thị trấn H, huyện B và đặt trụ sở Công ty N2 tại đây. Năm 2006 bà
X nhận chuyển nhượng đất của ông L rồi làm nhà chuyển cả gia đình đến tại
số C C, phường L.
Sau đó nhiều lần X yêu cầu ông L làm thtục sang tên nhưng ông L
đưa ra lý do đất vẫn chưa được cấp Giấy chứng nhận. Đến năm 2014 chị N (con
gái X) kiên quyết yêu cầu phải sang tên nhà đất này cho X thì lúc này ông
L mới thừa nhận ông L chưa nói với Đào Thị V (vợ ông L) nên phải trả
số tiền bà X n nợ lại 310.000.000đ, theo giá nhà đất thời điểm năm 2014
với số tiền là 2.354.000.000đ. Sở dĩ có số lẻ 4.000.000đ là do khi này con gái bà
X đi N1 mang tiền Y1 và đô la M về quy đổi ra tiền Việt Nam.
Chính vì vậy mà bà X đã trả cho ông L số tiền này vào ngày 03/7/2014 có
chữ của ông L. Tiếp đó ngày 29/9/2014 X lại trả tiếp cho ông L
1.000.000.00X giục nhiều lần bảo ông L làm thtục sang tên cho bà X
nhưng ông L đưa ra do Giấy chứng nhận V đang quản lý, nếu muốn sang
tên tphải đưa cho bà V 1.000.000.000đ để dưỡng già. Do đã làm nhà ổn
định tại đây, hơn nữa bà X đã chuyển trụ sở của Công ty N2 từ H, B đến số n
C C từ năm 2006 nên X đành chấp nhận đưa cho ông L mặc biết đây
tiền thừa so với giá trị thực tế của thửa đất. Số tiền này ch xác nhận của
ông L. do của việc chưa sang tên rất tin tưởng ông L, hơn nữa nếu làm
căng thì sợ ông L chia tay mang tiếng với nhà chồng cũ.
Sau khi mua đất của ông L, ngày 12/9/2006 (âm lịch) động thổ
trực tiếp xây dựng nhà phía trước 03 tầng nửa sau 4 tầng, có chừa phía trước nhà
03m diện tích xây dựng 85m
2
. người đóng thuế đất trực tiếp thuê
thợ, mua bán vật liệu xây dựng trực tiếp trả tiền nguyên vật liệu, công thợ.
5
Trong qtrình xây dựng nhà trên thửa đất số 30 đường C, là người xin cấp
phép xây dựng từ khi xây dựng, trên đất phía ông L và gia đình ông L
không có ý kiến về việc bà xây nhà và ở trên thửa đất trên. Từ đó đến nay gia
đình vẫn trên đất ổn định. X xác định ngôi nhà diện tích đất trên
thuộc quyền sở hữu của bà. không mượn của ông L vậy ông L đnghị trả
nhà đất cho ông L nên bà không đồng ý. Đối với tiền nộp thuế đất hàng năm từ
năm 2006 cho đến nay X không đề nghị gì đối với ông L đất này không
phải của ông L nên bà X có trách nhiệm nộp nghĩa vụ tài chính với Nhà nước.
Việc ông L cho rằng tiền làm nhà của ông L đưa cho X không
đúng. Gia đình ông L rất đông anh em, bản thân X không kiến thức về
xây dựng thì tại sao ông L lại phải nhờ bà X đứng ra làm nhà.
Ngoài ra theo đơn phản tố của bà Tòa án đã thụ giải quyết, yêu cầu
ông L phải trả lại cho diện tích đất của bà 100m
2
tại thửa 13 tờ bản đồ QH
tại số nhà B đường C, phường L, thành phố V do đã phải xử bán phát mại để
trả nợ cho ông L ông L phải trả bằng diện tích đất của ông L đang khởi kiện
đòi bà. Ngày 16/6/2023 bà X có đơn xin rút toàn bộ yêu cầu phản tố.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Đào Thị V trình bày: V vợ ông L. Năm 2004 hộ gia đình V
gồm V, ông L và cụ Nguyễn Thị T3 (là mẹ ông L) được Ủy ban nhân dân
thành phố V cấp cho diện tích đất 100m
2
thuộc thửa số 14, tờ bản đồ QH ở tại số
C đường C, phường L, V. Từ trước đến nay chưa làm bất kỳ thủ tục nào liên
quan đến việc chuyển nhượng đất cho bà Nguyễn Thị X và cũng không nhận bất
kỳ khoản tiền nào của bà X. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
ông L.
Cụ Nguyễn Thị T3 do người đại diện theo ủy quyền là ông Nguyễn Văn L4
trình bày: Cụ T3 mẹ đẻ ông L. Năm 2004 cụ T3 cùng vợ chồng ông L được
cấp ô đất diện tích 100m
2
đường C, phường L, thành phố V (đất cấp cho hộ
ông Phạm L). Nhân khẩu thời điểm này của hộ ông L gồm 03 người nên
cụ T3 cũng quyền lợi đối với thửa đất nêu trên và đề nghị Tòa án chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông L.
Chị Trần N, chị Trần Ngọc Y và anh Trần Ngọc L3 trình bày: Các anh
chị là con của X. Trước năm 2006 X cùng các con ở tại khu phố B thị trấn
H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 2006 X nhận chuyển nhượng của ông L
diện tích đất 100m
2
tại số C C đã hoàn tất việc trả tiền cho ông L làm nhà
trên đất này. Hiện nay trên nhà đất này có bà X cùng chị Y và anh L3 đang quản
lý, sử dụng. Việc ông L khởi kiện không căn cứ nên đề nghị không chp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông L. Số tiền 2.354.000.000đ X trả cho ông
L vào ngày 03/7/2014 một phần nguồn tiền của chị N trước đó chị N công
tác ở Nhật Bản khi về Việt Nam đã đổi tiền Yên N1 và Đô la M đưa cho bà X để
bà X trả tiền cho ông L.
Người làm chứng:
6
Chị Lương Thị D1 trình bày: Thời điểm năm 2006 đến năm 2011 chị làm
kế toán cho Công ty TNHH N2 do Nguyễn Thị X làm Giám đốc biết
việc ông L X quan hệ tình cảm với nhau, nói về việc mua bán diện
tích đất tại C C, L nhưng việc giao dịch cụ thể như thế nào chị không biết. Ông
L thường xuyên đến ăn tại số nhà C C, L. Còn X ng thường xuyên đến
nhà ông L tại Gia Khánh, B vì mỗi khi nhà ông L có công việc thì bà X cùng chị
đi chmua đồ lễ và cùng nhau mang đến nhà ông L. Mẹ các con của ông L
cùng anh em nhà ông L luôn niềm nở với bà X. Thậm chí anh em nhà ông L còn
thường xuyên lên nhà X chơi coi nhau như họ hàng. Cuối tháng 5, đầu
tháng 6 năm 2006, chị đi cùng X đến cổng Ủy ban nhân dân huyện B để
đưa tiền cho ông L nhưng không biết số tiền cụ thể bao nhiêu. Chỉ biết X
đưa cho ông L một bịch tiền to và bà X nói là tiền mua đất.
Chị Nguyễn Thị Thu H trình bày: Thời điểm từ năm 2006 trở về trước, chị
làm kế toán cho Công ty TNHH N2 do X m Giám đốc trụ sở tại sC C,
phường L. Hàng ngày chị đều đến trụ sở Công ty để làm thấy ông L thường
xuyên đến nhà X. những thời điểm ông L ăn hàng tháng tại nhà X.
Nếu nkhông ăn đấy tcứ hai hoặc ba ngày thì ông L lại đến ăn đấy
một hai ngày.
Anh Trần Văn B trình bày: Năm 2006 anh B ký hợp đồng với bà X để xây
ngôi nhà số C đường C. Tiền công xây dựng do X trực tiếp trả cho anh B,
không liên quan gì tới ông L.
Với nội dung như trên, tại Bản án dân sự số 11/2023/DS-ST ngày
23/6/2023 của Tòa án nhân dân thành phVĩnh Yên (nay Tòa án nhân dân
khu vực 9 - Phú Thọ) quyết định:
Căn cứ các Điều 158, 166, 213, 274, 280; Điều 357 của Bộ luật n sự
năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
[1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Bá L.
- Buộc Nguyễn Thị X, chTrần N anh Trần Ngọc L3 trả lại ông
Phạm Bá L và bà Đào Thị V diện tích đất 100m
2
tại thửa 14, tờ bản đồ QH tại số
nhà C đường C, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Ông Phạm Bá L Đào Thị V được quyền sử dụng ngôi nhà 3,5 tầng
trên thửa đất và có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị X số tiền ngôi nhà do
bà X xây dựng có trị giá là 733.084.000đ.
- Đình chỉ yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị X đối với yêu cầu ông L có
nghĩa vụ trả lại diện tích đất của 100m
2
tại thửa 13 tờ bản đồ QH tại
phường L, thành phố V.
Bản án còn quyết định về chi phí tố tụng, án phí quyền kháng cáo cho
các đương sự theo quy định.
7
Sau khi xét xử thẩm, ngày 28/6/2023, Nguyễn Thị X b đơn
kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ sửa Bản án dân sự thẩm
theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ tham gia
phiên toà phát biểu ý kiến:
Về tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ vụ án để xét xphúc thẩm
đến khi quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm phán Tđã thực hiện
đúng nhiệm vụ, quyền hạn của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên toà, Hội đồng t xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bluật Tố
tụng dân stừ khi khai mạc phiên toà đến trước khi nghị án, đảm bảo tư,
khách quan, đúng quy định pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308, Điều
309 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của
Nguyễn Thị X bị đơn, quyết định sửa Bản án dân sự thẩm số
11/2023/DS-ST ngày 23/6/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên (nay
Tòa án nhân dân khu vực 9 - Phú Thọ) theo hướng công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử, xét
thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn làm trong hạn luật định
nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2]. Quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện đòi bị đơn trả lại nhà đất tại
thửa số 14 tờ bản đồ QH tại số nhà C đường C, phường L, thành phố V, tỉnh
Vĩnh Phúc (nay số C đường C, phường V, tỉnh Phú Thọ). vậy, quan hệ
pháp luật “Tranh chấp quyền sdụng đất” theo quy định tại khoản 9 Điều 26
của Bộ luật Tố tụng dân sự;
[3]. Nội dung vụ án: Ông Phạm L khởi kiện yêu cầu Nguyễn Thị X
phải trả lại nhà đất tại thửa số 14 tờ bản đồ QH với lý do thửa đất số 14 tờ bản
đồ QH được Nhà nước giao cho năm 2001 và được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, năm 2006 ông cho bà X mượn để ở nhờ. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị
đơn kháng cáo Bản án sơ thẩm.
[4]. Bị đơn kháng cáo với nội dung, đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án
thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Hội đồng xét xử thấy rằng:
Cấp thẩm đã quyết định chấp một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, buộc Nguyễn Thị X, chị Trần N và anh Trần Ngọc L3 phải trả ông
Phạm L và bà Đào Thị V thửa đất số 14, tờ bản đồ QH diện tích đất 100m
2
tại số C đường C, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (nay phường V,
tỉnh Phú Thọ) ngôi nhà 3,5 tầng, công trình trên đất buộc ông Phạm L
8
Đào Thị V phải thanh toán cho Nguyễn Thị X giá trị ngôi nhà
733.084.000đồng là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sđã thỏa thuận thống nhất được
toàn bộ nội dung vụ án theo đó: Nguyễn Thị X được quyền quản lý, sử dụng
thửa đất số 14, tờ bản đồ QH diện tích đất 100m
2
tại số C đường C, phường L,
thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc và tài sản trên đất. bà X phải thanh toán giá trị thửa
đất 6.000.000.000 đồng cho ông L, V trong thời hạn 03 tháng, cụ thể:
Chậm nhất ngày 30/10/2025 trả 2.000.000.000 đồng, chậm nhất ngày
30/11/2025 trả 2.000.000.000 đồng, chậm nhất ngày 30/12/2025 trả
2.000.000.000 đồng. Việc thỏa thuận của các bên là hoàn toàn tự nguyện, không
trái đạo đức hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật nên Hội đồng xét xử
sẽ công nhận sự thỏa thuận trên.
X quyền liên hệ với quan Nhà nước thẩm quyền để làm thủ
tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 14, tờ bản đồ QH
diện tích đất 100m
2
tại số C đường C, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc
(nay là phường V, tỉnh Phú Thọ) theo quy định của pháp luật.
[5]. Đối với yêu cầu phản tố của X yêu cầu ông L nghĩa vụ trả lại
cho diện tích đất của 100m
2
tại thửa 13 tờ bản đồ QH tại số nhà B
đường C, phường L, thành phố V do đã phải xử bán phát mại để trả nợ cho
ông L ông L phải trả bằng diện tích đất của ông L đang khởi kiện đòi bà.
Ngày 19/6/2023 X đơn xin rút toàn bộ yêu cầu phản tố, cấp sơ thẩm đình
chỉ giải quyết yêu cầu phản tố là có căn cứ.
[6]. Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án thẩm
theo hướng phân tích trên.
[7]. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản ông L t
nguyện chịu và không để nghị giải quyết; Chi phí trưng cầu giám định X tự
nguyện chịu không đề nghị giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không xem xét
giải quyết đối với chi phí tố tụng trên.
[8]. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ đề nghị
sửa bản án sơ thẩm là có căn cứ được chấp nhận.
[9]. Về án phí: Do các đương sự người cao tuổi đơn xin miễn án
phí nên được miễn án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
n cứ Điều 300, khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị X là bị đơn.
Sửa Bản án dân sự thẩm 11/2023/DS-ST ngày 23/6/2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Vĩnh Yên (nay là Tòa án nhân dân khu vực 9 - Phú Thọ).
Căn cứ Điều 357 của Bộ luật Dân sự m 2015; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ
9
Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án, xử:
[1]. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Buộc Nguyễn ThX phải thanh toán cho ông Phạm L Đào
Thị V 6.000.000.000 đồng (Sáu tỷ đồng) giá trị thửa đất số 14, tờ bản đồ QH
diện tích đất 100m
2
tại số C đường C, phường V, tỉnh Phú Thọ, theo thời gian cụ
thể sau: Chậm nhất ngày 30/10/2025 trả 2.000.000.000 đồng, chậm nhất ngày
30/11/2025 trả 2.000.000.000 đồng, chậm nhất ngày 30/12/2025 trả
2.000.000.000 đồng.
Nguyễn Thị X được quyền quản lý, sử dụng thửa đất số 14, tờ bản đồ
QH diện tích đất 100m
2
tại số C đường C, phường V, tỉnh Phú Thọ ngôi nhà
3,5 tầng, công trình trên đất.
Nguyễn Thị X quyền liên hệ với quan Nhà nước thẩm quyền
để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 14, tờ
bản đồ QH diện tích đất 100m
2
tại số C đường C, phường L, thành phố V, tỉnh
Vĩnh Phúc (nay số C đường C, phường V, tỉnh Phú Thọ) theo quy định của
pháp luật.
Trường hợp Nguyễn Thị X vi phạm một trong các nghĩa vụ thanh toán
trên thì ông L, V quyền yêu cầu thi hành án buộc Nguyễn Thị X phải
trả toàn bộ số tiền chưa trả, người phi thi hành án không trả được, thì hàng
tháng còn phải trả tiền lãi đối với số tiền chậm trả theo mức lãi suất quy định tại
khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm
thanh toán.
[2]. Đình chỉ yêu cầu phản tố của bà Nguyễn Thị X đối với yêu cầu ông L
nghĩa vụ trả lại diện tích đất của 100m
2
tại thửa 13 tờ bản đồ QH tại
phường L, thành phố V.
[3]. Về án phí dân sự thẩm và dân sự phúc thẩm: Các đương sự được
miễn.
Trả lại ông Phạm L 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự thẩm
đã nộp theo biên lai số 0004614 ngày 14/12/2017, trả lại bà Nguyễn Thị X
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0004334 ngày
11/5/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Yên (nay là Phòng thi
hành án dân sự khu vực 9 - Phú Thọ).
[4]. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành án theo qui định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự
nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7,
7a, 7b 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo
qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
10
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Phú Thọ;
- TAND khu vực 9 - Phú Thọ;
- VKSND khu vực 9 - Phú Thọ;
- THADS tỉnh Phú Thọ;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ, VP.NHÂN DÂN
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Nghĩa
Tải về
Bản án số 217/2025/DS-PT Bản án số 217/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 217/2025/DS-PT Bản án số 217/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất