Bản án số 327/2025/DS-PT ngày 12/11/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng hợp tác
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 327/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 327/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 327/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 327/2025/DS-PT ngày 12/11/2025 của TAND tỉnh Lâm Đồng về tranh chấp hợp đồng hợp tác |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng hợp tác |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lâm Đồng |
| Số hiệu: | 327/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 12/11/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Võ Nguyễn Hạnh U tranh chấp hợp đồng hợp tác Chu Quang H |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 327/2025/DS-PT
Ngày: 13-11-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng hợp tác
kinh doanh”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Vũ Thị Nguyệt
Các Thẩm phán: Ông Huỳnh Châu Thạch
Bà Huỳnh Nguyễn Thanh Trúc
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Ngọc Huyền – Thư ký, Toà án nhân dân tỉnh
Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng: Ông Trần Minh Công
– Kiểm sát viên tham gia phiên tòa.
Ngày 13 tháng 11 năm 2025 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng; xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 247/2025/TLPT-DS ngày 06/10/2025 về
việc “Tranh chấp hợp đồng hợp tác kinh doanh”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2025/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2025 của
Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu
vực 1 – Lâm Đồng) bị kháng cáo, kháng nghị.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 489/2025/QĐ-PT ngày
23 tháng 10 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Võ Nguyễn Hạnh U, sinh năm 1994; cư trú tại số C; đường
P, thị trấn L, huyện L (nay là phường L - Đ), tỉnh Lâm Đồng.
- Bị đơn: Ông Chu Quang H, sinh năm 1981; cư trú tại số C, đường T,
Phường C, thành phố Đ (nay là phường X - Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Ông Huỳnh Khả T, sinh năm: 1994; cư trú tại số E, đường P, thị trấn L,
huyện L (nay là phường L - Đ), tỉnh Lâm Đồng.
2
+ Ông Nguyễn Minh T1, sinh năm 1987; cư trú tại số A, đường T, Phường
H, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng (nay là phường L - Đ), tỉnh Lâm Đồng.
Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
Người kháng cáo: Bà Võ Nguyễn Hạnh U – Nguyên đơn; Ông Chu Quang
H – Bị đơn.
(Các đương sự có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Nguyên đơn bà Võ Nguyễn Hạnh U trình bày: Ngày 19/9/2022 bà và ông
Chu Quang H có ký hợp đồng hợp tác kinh doanh (Hợp đồng không có công
chứng). Nội dung hợp đồng: Bà U và ông H góp tiền mua chung một xe ô tô biển
số 49A - 200.48, hiệu TOYOTA, số loại: VIOS (xe vẫn còn đứng tên chủ cũ là bà
Lê Hoàng Khánh D) số tiền mỗi bên góp là 250.000.000đ. Thời hạn hợp tác kể từ
ngày 19/9/2022 đến tháng 02/2030. Hợp đồng ghi mỗi người chạy một ngày, luân
phiên nhau. Trong một ngày làm ra lợi nhuận bao nhiêu thì người đó được hưởng
bấy nhiêu. Khi xe có vấn đề về hư hỏng hoặc thanh toán tiền đài, tiền thuế cho
công ty hàng tháng thì cả 2 bên cùng chia đôi chi phí.
Ông H là người trực tiếp ký hợp đồng với công ty T2, địa chỉ: tổ A thị trấn
L, tỉnh Lâm Đồng (Hãng taxi L1).
Quá trình thực hiện hợp đồng, ông H vi phạm về việc không giao xe cho bà
cụ thể:
Lần 1: Từ ngày 05/8/2023 đến ngày 13/8/2023 là 4 ca Lần 2: Từ 20/9/2023
đến nay.
Theo hợp đồng hợp tác thì nếu ông H cản trở không cho bên góp vốn lấy xe
thì hai bên thống nhất phải thanh toán cho bên thiệt hại số tiền 1.500.000đ/ngày.
Ngày 20/7/2023 ông T (chồng bà U là tài xế của bà) đi thay lốp xe hết khoảng
2.900.000đ đến 3.000.000đ. Ông T có thông báo cho ông T1 là tài xế của ông H
để báo lại cho ông H nhưng ông H vẫn không thanh toán.
Ngày 25/7/2023 do ông H không thanh toán nên ông T tháo lốp xe và giao
xe cho ông T1 nhưng ông T1 không nhận xe và bỏ về nên ông T mang xe về nhà
và chỉ sử dụng theo ca làm.
Đến ngày 04/8/2023 ông H gọi cho ông T và yêu cầu giao xe và ông T đã
giao xe cho ông H.
Đến ngày 05/8/2023 ông T gọi cho ông T1 để lấy xe kinh doanh thì ông T1
nói ông H đi sửa xe hết 40.000.000đ và yêu cầu ông T đưa 40.000.000đ thì mới
giao lại xe.
3
Ngày 14/8/2023 ông T1 ( tài xế của ông H) gọi cho ông T ra thương lượng
để lấy xe vào ngày 15/8/2023.
Ngày 15/8/2023 khi ra lấy xe thì ông H ép buộc đưa 5.000.000đ trong hạn
01 tháng thì ông H mới đưa xe. Ông T cũng đồng ý và lấy xe về. Nhưng số tiền
5.000.000đ thì ông T không thanh toán cho ông H vì trong hợp đồng không có
điều khoản này.
Ngày 18/9/2023 ông H gọi đòi 5.000.000đ thì bà hỏi số tiền giữ xe 4 ngày
đâu thì ông H cúp máy.
Ngày 19/9/2023 ông T giao xe cho ông H.
Ngày 20/9/2023 ông H không giao xe lại cho ông T và sử dụng từ đó cho
đến nay.
Nay bà khởi kiện yêu cầu chấm dứt hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa bà và
ông H. Vì cấm dứt hợp đồng nên yêu cầu ông H thanh toán cho bà % giá trị xe là
88.500.000đ và bồi thường 230 ca mà bà không được sử dụng xe (tạm tính đến
ngày 19/12/2024) x 1.500.000đ = 337.500.000đ. Tổng cộng số tiền bà yêu cầu là
426.000.000đ.
- Bị đơn ông Chu Quang H trình bày: Việc ký hợp đồng như bà U trình bày
là đúng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng hai bên thực hiện đến ngày 7/8/2023
do xe bị hư nên ông đưa xe xuống ga ra ở Đ để sửa. Việc thay lốp xe trước đó do
ông T là tài xế của bà U báo cho anh T1 tài xế của ông nên ông không đồng ý.
Sau đó hai bên hòa giải với nhau thống nhất 5 ca (5 ngày) mà bên ông T chồng cô
U giữ xe của ông + cộng tiền sửa xe vào ngày 7/8/2023, bên ông T chồng cô U
đưa cho ông 5.000.000đ, ông T hứa cuối tháng 8/2023 đưa cho ông. Vì ông T
không đưa tiền cho ông nên ông không có tiền đóng tiền thuế, đài tháng 8 (tiền
tháng và đài giao động) nên công ty khóa app.
Do bà U không chịu đưa tiền cho ông đóng thuế tháng 8/2023 nên từ tháng
9/2023 đến nay ông giữ xe và ông tự đóng thuế, nếu ông không đóng thuế thì công
ty K. Trong thời gian này đến ca ông thì ông chạy, đến ca của bà U ông không
chạy.
Đối với yêu cầu chấm dứt hợp đồng của nguyên đơn thì ông đồng ý. Ông
đồng ý thanh toán 2 giá trị chiếc xe là 88.500.000đ. Đối với yêu cầu bồi thường
của nguyên đơn thì ông không đồng ý vì không vi phạm.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Khả T trình bày: Ông là
chồng bà U, là người trực tiếp lái xe. Ông thống nhất với lời trình bày của bà U.
Ngoài ra không bổ sung gì thêm.
4
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Minh T1 trình bày: Ông
là lái xe cho ông H, hai bên mâu thuẫn từ tháng 8/2023 sau đó thoả thuận là ông
T (chồng bà U) đồng ý trả cho ông H 5.000.000đ (tiền bồi thường 5 ca của ông H
mà bà U sử dụng trước đó và tiền sữa xe) hai bên tiếp tục thực hiện hợp đồng (hai
bên giao xe đúng ca). Do ông T không thực hiện lời hứa trả tiền 5.000.000đ cho
ông H, không chịu đưa tiền đóng nhà Đ nên khoảng ngày 03/10/2023 thì ông H
đi đóng tiền đài và sau đó ông H không giao xe cho ông T. Sau ngày 03/10/2023
ông H sử dụng xe, do ế khách nên ông chạy cả 2 ca. Sau khi Tòa án tiến hành hòa
giải, thì ông H có gọi cho ông T để ra lấy xe. Tuy nhiên, ông T cho rằng xe lỗi khí
thải nên không nhận xe.
Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng không thành.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2025/DS-ST ngày 24 tháng 6 năm 2025 của
Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng (nay là Tòa án nhân dân khu
vực 1 – Lâm Đồng) đã xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Nguyễn Hạnh
U với bị đơn ông Chu Quang H.
Huỷ hợp đồng hợp tác kinh doanh ngày 19/9/2022 giữa bà Võ Nguyễn Hạnh
U và ông Chu Quang H.
Giao cho bà Võ Nguyễn Hạnh U được quyền sử dụng xe ô tô biển số 49A-
200.48 hiệu TOYOTA, số loại: VIOS theo hợp đồng uỷ quyền ngày 03/7/2023
giữa ông Trần Bảo Q, bà Lê Hoàng Khánh D uỷ quyền cho bà Võ Nguyễn Hạnh
U.
Buộc bà Võ Nguyễn Hạnh U thanh toán cho ông Chu Quang H số tiền
88.676.500đ. Buộc ông Chu Quang H bồi thường cho bà Võ Nguyễn Hạnh U số
tiền 123.750.000đ. Sau khi cấn trừ nghĩa vụ thanh toán giữa bà U và ông H thì
ông Chu Quang H có trách nhiệm thanh toán cho bà Võ Nguyễn Hạnh U số tiền
35.073.500đ (123.750.000đ – 88.676.500đ).
Buộc ông Chu Quang H có trách nhiệm thanh toán cho bà Võ Nguyễn Hạnh
U 2.730.000đ tiền chi phí thẩm định giá.
Bác yêu cầu bồi thường thiệt hại theo hợp đồng hợp tác kinh doanh của bà
Võ Nguyễn Hạnh U đối với số tiền 362.250.000đ (ba trăm sáu mươi hai triệu hai
trăm năm mươi ngàn đồng).
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và trách nhiệm thi hành án của các bên
đương sự.
Ngày 07/7/2025, bà Võ Nguyễn Hạnh U kháng cáo một phần bản án, yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng giao toàn quyền sử
5
dụng, định đoạt xe ô tô mang biển kiểm soát 49A-20048 nhãn hiệu TOYOTA, số
loại VIOS, số máy 2RNX276962, số khung 9F37J55034757 theo giấy chứng nhận
đăng ký ô tô số 032705 do Công an tỉnh L cấp ngày 27/3/2018; Yêu cầu ông Chu
Quang H bồi thường thiệt hại số tiền 486.000.000đ.
Ngày 28/7/2025, ông Chu Quang H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu
cầu Tòa án cấp phúc thẩm hủy án sơ thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 18/QĐ-VKS-DS ngày 21/7/2025
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng, kháng nghị toàn bộ bản
án, đề nghị hủy bản án dân sự sơ thẩm.
Tại phiên tòa hôm nay: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định kháng
nghị; nguyên đơn, bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng phát biểu về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và các
đương sự tại giai đoạn phúc thẩm cũng như phiên tòa hôm nay: đã chấp hành đúng
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn
cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hủy toàn bộ bản án sơ
thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp giữa các bên đã được Tòa án cấp sơ thẩm xác định
theo đúng quy định của pháp luật; đơn kháng cáo của bà Võ Nguyễn Hạnh U, ông
Chu Quang H; kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm
Đồng; người kháng cáo, kháng nghị; thủ tục kháng cáo, kháng nghị được thực
hiện đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273, 278, 279 và 280 Bộ luật Tố
tụng dân sự nên đủ điều kiện để Hội đồng xét xử xem xét giải quyết theo thủ tục
phúc thẩm.
[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Lâm Đồng và
kháng cáo của bà Võ Nguyễn Hạnh U, ông Chu Quang H.
[2.1] Về tố tụng:
Xe ô tô TOYOTA VIOS, biển kiểm soát 49A-200.48, đứng tên bà Lê Hoàng
Khánh D theo Giấy đăng ký xe số 032705 ngày 27/3/2018. Ngày 19/4/2021, vợ
chồng bà Lê Hoàng Khánh D, ông Trần Bảo Q và vợ chồng ông Chu Quang H,
bà Nguyễn Thị H1 lập giấy mua bán xe, với giá 500.000.000đ. Hai bên thỏa thuận
không làm thủ tục sang tên mà chỉ lập hợp đồng ủy quyền để bên mua được sử
dụng xe. Giấy mua bán này không được công chứng, chứng thực. Căn cứ Điều
430, 459 Bộ luật Dân sự và Điều 12 Thông tư số 24/2023/TT-BCA ngày
01/7/2023 của Bộ C thì việc chuyển quyền sở hữu xe ô tô chỉ có hiệu lực khi được
6
lập bằng văn bản có công chứng, chứng thực và hoàn tất thủ tục sang tên đăng ký.
Vì vậy, ông Chu Quang H chưa phải là chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe. Tại
phiên tòa hôm nay ông H trình bày hộ khẩu của ông ở Đắk Lắk (cũ) nên nếu sang
tên cho ông thì xe không mang biển số 49 (Lâm Đồng), ông sẽ không được Công
ty T2 đăng ký cho chạy dịch vụ.
Đến ngày 03/7/2023 bà D, ông Quốc L Hợp đồng ủy quyền số 1204 tại Văn
phòng C1, ủy quyền cho ông H được quyền sử dụng chiếc xe biển số 49A-200.48.
Cùng ngày, ông H tiếp tục ủy quyền lại cho bà Võ Nguyễn Hạnh U “được quyền
sử dụng xe” ô tô con, nhãn hiệu TOYOTA, biển số 49A-200.48 theo Giấy chứng
nhận đăng ký xe ô tô số 032705 do Phòng C2 Công an tỉnh L cấp ngày 27/3/2018.
Như vậy, theo nội dung hợp đồng uỷ quyền lại thì ông H chỉ uỷ quyền cho bà U
được quyền sử dụng xe ô tô. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm không thu thập Hợp
đồng ủy quyền số 1204 để xác định rõ phạm vi và nội dung ủy quyền ban đầu từ
bà D, ông Q cho ông H nên không làm rõ được quyền hạn thực tế của ông H cũng
như tính hợp pháp của việc ủy quyền lại cho bà U.
Ngoài ra, theo giấy mua bán xe ngày 19/4/2021, chiếc xe được xác định là
của vợ chồng bà D, ông Q bán cho vợ chồng ông H, bà H1 và xe ô tô vẫn đứng
tên bà D nhưng Tòa án sơ thẩm không đưa bà H1, bà D, ông Q vào tham gia tố
tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm về thủ tục tố
tụng.
Quá trình giải quyết vụ án ông H không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn về việc chấm dứt hợp đồng hợp tác đầu tư (tại biên bản hòa giải ngày
28/4/2025 - BL117), nhưng bản án sơ thẩm lại nhận định đồng ý hủy hợp đồng
trên là không đúng ý chí của ông H.
[2.1] Về nội dung:
Bà U trình bày, ông H sử dụng 04 ca làm việc của bà từ ngày 05/8/2023 đến
ngày 13/8/2023. Sau đó, bà tiếp tục sử dụng xe từ ngày 15/8/2023 đến ngày
18/9/2023. Kể từ ngày 19/9/2023 đến nay, ông H là người giữ và sử dụng xe. Ông
H cho rằng do từ đầu tháng 8/2023 hai bên có mâu thuẫn về việc sửa chữa xe, sau
khi dàn xếp thì bà U đồng ý sẽ đưa cho ông H số tiền 5.000.000 đồng, gồm tiền
sửa xe và tiền bồi thường cho 05 ca mà bà đã sử dụng của ông nhưng bà U không
đưa số tiền 5.000.000đ cho ông như cam kết nên ông không có tiền đóng phí đài
tháng 8/2023. Do không đóng phí, công ty T2 khóa ứng dụng (app) điều hành xe
và kể từ tháng 9/2023, ông H tiếp tục giữ xe, tự đóng thuế và chỉ sử dụng xe trong
các ca của mình. Ngược lại, bà U khẳng định đã đóng đủ thuế đến hết tháng 8/2023
và giao xe cho ông H ngày 20/9/2023 trong tình trạng xe vẫn đang hoạt động bình
thường, không hư hỏng.
7
Ông H cho rằng, đến cuối tháng 9/2023 xe bị Công ty taxi khóa app do không
đóng tiền đài (BL số 18). Ông T1 (tài xế của ông H) khai rằng xe đã bị khóa app
ngay từ khi ông T (tài xế của bà U) bàn giao xe. Đến ngày 03/10/2023 ông H mới
đi đóng tiền để mở lại app nhưng không trả xe mà tiếp tục để ông T1 sử dụng.
Như vậy, lời khai của các bên đương sự có nhiều mâu thuẫn nhưng cấp sơ thẩm
không xác minh nguyên nhân khóa app, không thu thập dữ liệu từ Công ty T2 về
thời điểm và lý do khóa app và nghĩa vụ đóng thuế tháng 8/2023 thuộc về ai. Do
đó, không làm rõ được bên nào có lỗi trong việc vi phạm nghĩa vụ giao xe, làm
căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường.
Về tình trạng xe tại thời điểm giao trả ngày 05/3/2024: Ông H cho rằng ngày
05/3/2024 đã gọi điện yêu cầu bà U đến nhận lại xe nhưng bà không đến nên
không có cơ sở để yêu cầu bồi thường tiếp. Tuy nhiên, bà U lại xác định khi đến
nhận xe, bà phát hiện xe bị hư hỏng, cụ thể là báo lỗi động cơ, không có đèn chiếu
sáng, bà có lưu hình ảnh và video chứng minh tình trạng xe, sẽ cung cấp nếu Tòa
yêu cầu. Trong khi đó, ông H cho rằng xe không hư, chỉ báo đèn và thao tác tháo
mát vài giây là sẽ hoạt động lại bình thường.
Như vậy, mặc dù lời khai của hai bên mâu thuẫn nhưng Tòa án cấp sơ thẩm
không xác minh để kiểm tra tình trạng kỹ thuật của xe, không yêu cầu cung cấp
hình ảnh, video, tài liệu kỹ thuật, không trưng cầu giám định, dẫn đến việc kết
luận rằng bà U từ chối nhận xe là “do lỗi của nguyên đơn” là thiếu căn cứ.
Ngoài ra, trong thời gian ông H giữ và sử dụng xe từ tháng 9/2023 đến trước
khi đưa vụ án ra xét xử, Tòa án không làm rõ ông H có sử dụng xe để kinh doanh,
thu lợi hay không, không xác định thu nhập thực tế trong thời gian đó, cũng như
không tính toán các khoản chi phí sửa chữa, bảo dưỡng, đăng kiểm... để xác định
nghĩa vụ tài chính theo hợp đồng hợp tác giữa hai bên dẫn đến việc bỏ sót nghĩa
vụ chứng minh và quyền yêu cầu của các bên.
[2.3] Về án phí: Bà U là người khởi kiện yêu cầu huỷ hợp đồng hợp tác kinh
doanh ký ngày 19/9/2022 với ông H, yêu cầu này của bà U được chấp nhận nhưng
lại buộc bà U phải chịu án phí không có giá ngạch (300.000 đồng) là không đúng.
Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên ông H phải chịu án phí không có
giá ngạch mới đúng.
Từ những phân tích trên, chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng và kháng cáo của bị đơn. Do hủy bản án
sơ thẩm nên chưa xem xét đến kháng cáo của nguyên đơn. Hủy toàn bộ bản án sơ
thẩm, chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân khu vực 1 – Lâm Đồng giải, quyết
lại vụ án theo đúng quy định pháp luật.
8
[3] Tiền tạm ứng chi phí tố tụng, tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đương sự
đã nộp, nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, chịu án phí dân sự sơ thẩm sẽ được quyết
định khi giải quyết lại vụ án.
[4] Về án phí:
Do hủy bản án sơ thẩm nên bà U, ông H không phải chịu án phí dân sự phúc
thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 3 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Lâm Đồng; chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Nguyễn Hạnh
U, bị đơn ông Chu Quang H.
Tuyên xử:
1. Hủy toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm số 44/2025/DS-ST ngày 24 tháng 6
năm 2025 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng .
Chuyển hồ sơ về cho Tòa án nhân dân khu vực 1 – Lâm Đồng, thụ lý giải
quyết lại vụ án theo đúng quy định pháp luật.
2. Tiền tạm ứng chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm đương sự đã nộp,
nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, án phí dân sự sơ thẩm sẽ được quyết định khi giải
quyết lại vụ án.
3. Về án phí phúc thẩm:
Hoàn trả cho bà Võ Nguyễn Hạnh U số tiền 300.000đ tạm ứng án phí phúc
thẩm đã nộp theo Biên lai thu số 0001082 ngày 23/7/2025 của Thi hành án dân sự
tỉnh Lâm Đồng.
Hoàn trả cho ông Chu Quang H số tiền 300.000đ tạm ứng án phí phúc thẩm
đã nộp theo Biên lai thu số 0002017 ngày 08/8/2025 của Thi hành án dân sự tỉnh
Lâm Đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
9
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Lâm Đồng (01);
- Phòng GĐ, KT, TT&THA (01);
- TAND khu vực 1 – Lâm Đồng (01);
- Phòng THADS khu vực 1 – Lâm Đồng
(01);
- Đương sự (04);
- Lưu: bộ phận lưu trữ, hồ sơ vụ án (03).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Vũ Thị Nguyệt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 20/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 15/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 23/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm