Bản án số 543/2025/DS-PT ngày 25/10/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 543/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 543/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 543/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 543/2025/DS-PT ngày 25/10/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp quyền sử dụng đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
| Số hiệu: | 543/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 25/10/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Lê Văn T1 "Tranh chấp QSD đất, yêu cầu bồi thường thiệt hại" Nguyễn T2 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 543/2025/DS-PT
Ngày: 25-9-2025
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng
đất; yêu cầu tháo dỡ công trình
xây dựng, di dời tài sản trên đất
và yêu cầu bồi thường thiệt hại”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đào Thị Kiều Vân
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Lệ Trang
Ông Nguyễn Văn Nam
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thuỷ Tiên – Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Nai.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa: Ông
Phùng Đức Nam - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 9 năm 2025 tại Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc
thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 208/2025/TLPT-DS ngày 02 tháng 6 năm
2025 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất; yêu cầu tháo dỡ công trình xây
dựng, di dời tài sản trên đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2025/DS-ST ngày 21/3/2025 của Tòa án
nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai (nay là Toà án nhân dân khu vực
4 – tỉnh Đồng Nai) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 364/2025/QĐ-PT ngày
04/8/2025; Quyết định hoãn phiên toà số 874/2025/QĐ-PT ngày 28/8/2025 và
Quyết định hoãn phiên toà số 967/2025/QĐ-PT ngày 17/9/2025, giữa các đương
sự:
1. Nguyên đơn: Ông Lê Van T1, sinh năm 1976 (có mặt).
Địa chỉ: Khu phố A, phường B, tỉnh Đồng Nai.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn T2, sinh năm 1982 (có mặt).
Địa chỉ: khu phố C, phường X, tỉnh Đồng Nai.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
- Bà Nguyễn Thị Hồng P, sinh năm 1985 (có mặt).
Địa chỉ: Khu phố A, phường B, tỉnh Đồng Nai.
- Bà Võ Thị Mỹ H, sinh năm 1984 (vắng mặt).
Địa chỉ: khu phố C, phường X, tỉnh Đồng Nai..
4. Người kháng cáo: Nguyên đơn ông T1, bị đơn ông T2.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Bản án sơ thẩm
Nguyên đơn trình bày:
Nguyên đơn là chủ sử dụng đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 13, phường
X, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai có diện tích 2124,4m
2
theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số
DG 330712, số vào sổ cấp GCN: CS 05297, do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Đồng Nai cấp ngày 22/07/2022, cập nhật biến động ngày 17/09/2022 đứng tên T1.
Nguồn gốc đất do nguyên đơn nhận chuyển nhượng trọn thửa đất từ bà Đng Thị
Minh N vào ngày 31/08/2022. Tiếp giáp với thửa đất này là thửa đất số 72, tờ bản
đồ số 13 do bị đơn ông Nguyễn Tiến T2 đang quản lý, sử dụng.
Ngày 16/10/2022, qua kiểm tra lại diện tích đất, ông phát hiện ông T2 đ đt
rất nhiều chậu cây kiểng lớn và lắp đt nhà tạm lấn qua thửa đất của ông, diện tích
lấn chiếm khoảng 500m
2
nên ông có liên lạc với ông T2 đề nghị trả lại phn đất
lấn chiếm và thống nhất làm tường rào nhưng ông Thành không hợp tác. Chng
những vậy, ông T2 còn thách thức, tiếp tục gây khó khăn cho ông trong việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định, gây khó khăn cho
ông trong việc dọn dp đất để trồng cây canh tác trên thửa đất của mình. Ủy ban
nhân dân phường X đ tiến hành hoà giải giữa các bên vào ngày 18/11/2022 nhưng
kết quả hoà giải không thành.
Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cu Tòa án giải quyết buộc ông T2
phải di dời toàn bộ các chậu cây kiểng và nhà tạm trên phn đất lấn chiếm, trả lại
diện tích khoảng 500m
2
đất thuộc thửa số 63, tờ bản đồ 13, thuộc khu phố 2,
phường X, thành phố K, tỉnh Đồng Nai, tạo điều kiện cho nguyên đơn sử dụng đất
đúng với diện tích đất đ được Nhà nước công nhận. Đồng thời, buộc ông T2 phải
bồi thường thiệt hại vì đ làm ảnh hưởng đến công việc làm tường rào, trồng cây
và hoạt động kinh tế khác trên thửa đất của ông với số tiền là 100.000.000 đồng
(Một trăm triệu đồng).
Theo đơn khởi kiện bổ sung, bản tự khai đề ngày 14/3/2025 và trình bày tại
phiên tòa ngày 17/3/2025, 21/3/2025, nguyên đơn xác định bị đơn đang lấn chiếm
của nguyên đơn tổng diện tích 906,5m
2
. Bao gồm phn được giới hạn bởi các điểm
(2,3,36,37,18,2) có diện tích 800m
2
, phn được giới hạn bởi các điểm
(3,45,35,36,3) có diện tích 82,6m
2
và phn được giới hạn bởi các điểm
3
(2,2A,25,45,3,2) có diện tích 23,9m
2
theo bản Trích lục và đo hiện trạng thửa đất
bản đồ địa chính số 1927/2023 và văn bản số 79/VPĐK.CNLK ngày 14/3/2025
của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai, chi nhánh Long Khánh. Do vậy,
nguyên đơn xác định lại yêu cu khởi kiện như sau: Buộc bị đơn ông T2 và người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Mỹ H phải tháo dỡ công trình xây dựng
trên phn đất lấn chiếm, di dời toàn bộ cây cảnh và trả lại cho nguyên đơn phn
đất đ lấn chiếm có tổng diện tích 906,5m
2
. Đồng thời, bồi thường thiệt hại với số
tiền là 250.000.000 (Hai trăm năm mươi triệu) đồng, tương ứng với thời gian cản
trở việc sử dụng đất là 30 tháng (từ tháng 9/2022 đến tháng 3/2025) do làm ảnh
hưởng đến công việc xây tường rào, trồng cây và tiền cho thuê đất hoạt động kinh
tế khác trên thửa đất của nguyên đơn.
Bị đơn trình bày:
Năm 2017, ông mua của bà Vũ Thị M một thửa đất có diện tích khoảng
4200m
2
, theo hướng của bà M và những hộ dân sống xung quanh đ cắm ranh mốc
ngoài thực địa, có sự làm chứng của ông Nguyễn Trung, bà Thị V, bà Thị L ông
Thổ B và ông Nguyễn Thái S là những người sử dụng đất lâu năm tại đây và họ
cũng là chủ sử dụng đất trước khi chuyển nhượng cho bà Mai và bà Nguyệt, có xác
nhận kèm theo. Tuy nhiên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà
Mai thì diện tích khoảng 2200m
2
tại thửa số 72, tờ bản đồ số 13, phường X, thành
phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Khi phát hiện có sự sai sót trong việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, năm 2019, ông và bà Đng Thị Minh N có trao đổi
và thỏa thuận miệng về việc cắm ranh mốc giữa hai bên và có những người dân sử
dụng đất xung quanh chứng kiến là ông Nguyễn Tr, bà Thị V, bà Thị L. Bà Đng
Thị Minh N lúc này đang sử dụng thửa đất số 63, tờ bản đồ số 13, phường X, thành
phố Long Khánh. Sau khi xác định ranh mốc, ông đ làm đường, di dời trụ điện,
đổ thêm đất vào các hố trước đây người dân đục đá để trồng cây. Phn đất của bà
Nguyệt để trống nhiều năm (khoảng 10 năm) không canh tác. Bà Thị V, bà Thị L,
ông Thổ B, ông Nguyễn Tr là những người sử dụng đất, canh tác trực tiếp trên 2
thửa đất nêu trên đ xác định vị trí các mốc mà bị đơn đ cắm là đúng ranh mốc và
xác định giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho các hộ dân có sự sai sót.
Trong quá trình đo đạc lập bản đồ địa chính để cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không có sự chỉ dẫn ranh của các hộ dân đang sử dụng đất, từ đó dẫn đến
việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân có sự sai sót nên cn
được xác minh làm rõ và cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo đúng
ranh mốc đ được xác định ngoài thực địa.
Năm 2020, ông có làm đơn gửi Uỷ ban nhân dân phường X đề nghị giải
quyết tranh chấp và xác định lại cột mốc đ đóng giữa 2 bên theo thỏa thuận, vì
trước đó ông và bà N có trao đổi thỏa thuận miệng về việc cắm ranh mốc nhưng
chưa làm thủ tục tách thửa vì không đủ điều kiện. Ngày 26/9/2020, Uỷ ban nhân
dân phường X sau khi tiếp nhận đơn đề nghị giải quyết tranh chấp và xác định lại
4
cột mốc đ đóng lại theo thỏa thuận tiến hành hòa giải giữa 2 bên nhưng kết quả
hòa giải không thành. Uỷ ban nhân dân phường X hướng dẫn ông làm đơn gửi đến
Tòa án để được giải quyết. Tuy nhiên, trong năm 2021 do tình hình dịch bệnh xảy
ra và bận đi làm ăn xa nên ông chưa gửi đơn đến Tòa án để giải quyết dứt điểm
việc tranh chấp nêu trên. Trong quá trình thu thập tài liệu chứng cứ để giải quyết
việc tranh chấp, ông nhận thấy trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho bà Đng Thị Minh N có sự sai sót, vì chủ sử dụng đất trước đây là ông Thổ
Bộ, sau đó ông Thổ Bộ bán lại cho bà Tư Hớn không phải bán cho bà Nguyệt.
Trong giấy mua bán tay để lập thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
bà N thì thể hiện việc mua bán đất từ ông Thổ Bộ sang cho bà N. Ông nhận thấy
chữ ký của ông Thổ B trên giấy mua bán từ ông Thổ B sang cho bà N có phn
không đúng, đề nghị giám định lại chữ ký của ông Thổ Bộ. Khi việc tranh chấp
ranh đất giữa ông và bà N chưa kết thúc lại chuyển nhượng toàn bộ thửa đất số 63
cho ông T1. Do vậy, bị đơn không đồng ý với toàn bộ yêu cu khởi kiện của nguyên
đơn.
Tại phiên tòa ngày 18/02/2025, bị đơn yêu cu giám định chữ ký của ông
Thổ B trong giấy tờ mua bán đất với bà Nguyệt và yêu cu triệu tập thêm người
làm chứng là bà Vũ Thị M và bà Đng Thị Minh N. Tại phiên tòa ngày 21/3/2025,
bị đơn yêu cu Hội đồng xét xử hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đ cấp
cho bà Đng Thị Minh N đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 13, phường X, thành
phố K, tỉnh Đồng Nai vì sai về trình tự, thủ tục. Giấy sang nhượng đất đề ngày
27/7/1987 mà bà N cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng có dấu hiệu giả mạo chữ ký của ông Thổ Bộ, việc
này đ được bà Nguyễn Thị H– vợ của ông Thổ B xác nhận; ông Thổ B bán đất
cho bà Tư H (m của bà N) chứ không bán đất cho bà N, diện tích chuyển nhượng
chỉ khoảng 1.300m
2
nhưng sau này bà N kê khai cấp giấy với diện tích trên
2.000m
2
.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng P trình bày:
Bà là vợ của ông T1, là chủ sử dụng đối với thửa đất số 63, tờ bản đồ số 13,
địa chỉ: Khu phố 2, phường X, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai; diện tích
2124,4m
2
căn cứ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất số DG 330712, số vào sổ cấp GCN: CS 05297, do Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Nai cấp ngày 22/07/2022, cập nhật biến động
ngày 17/09/2022 đứng tên chồng bà là ông T1. Nguồn gốc đất do bà và chồng bà
nhận chuyển nhượng trọn thửa đất từ bên chuyển nhượng là bà Đng Thị Minh N
vào ngày 31/08/2022. Đây là tài sản chung của bà và chồng bà nhưng trên giấy tờ
thì chỉ có mình chồng bà đứng tên. Tiếp giáp với thửa đất của vợ chồng bà là thửa
số 72, tờ bản đồ số 13 do ông T2 đang quản lý, sử dụng. Qua kiểm tra lại đất, vợ
chồng bà phát hiện ông Thành đ đt rất nhiều chậu cây kiểng lớn và lắp đt nhà
tạm lấn qua thửa đất của ông bà. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công

5
dân, bà đề nghị Tòa án giải quyết yêu cu của vợ chồng bà theo đơn khởi kiện ngày
07 tháng 12 năm 2022. Bà thống nhất với yêu cu của nguyên đơn trong quá trình
giải quyết vụ án, không bổ sung gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị Mỹ H trình bày:
Bà thống nhất với lời trình bày của chồng bà là ông T2 và không đồng ý với
yêu cu khởi kiện của nguyên đơn.
Những người làm chứng trình bày:
Bà Thị V trình bày: Bà là hàng xóm của nguyên đơn và bị đơn, giữa bà với
các bên đương sự không có mâu thuẫn gì. Nguồn gốc thửa đất số 63, 72 tờ bản đồ
số 13 bản đồ địa chính phường X là của ông Thổ Đ. Ông Đ là cha của bà và ông
Sang Văn K. Ông Đ giao phn đất này cho ông K năm 1984, ông Ký chia cho bà
1 phn đất hiện nay là thửa 63 khoảng hơn 1000m
2
. Ranh đất của bà và đất ông Ký
phn cuối ranh có cái giếng. Theo bản Trích lục hiện trạng thửa đất số 1927/2023
ngày 19/5/2023 thì cái giếng nằm tại vị trí điểm mốc số 18. Sau đó, bà bán miếng
đất này cho ông Thổ Bộ không làm giấy tờ gì. Khi ông Ký giao đất cho bà cũng
không làm giấy tờ gì. Ông Đ cũng không có giấy tờ về nguồn gốc đất. Khi ông Đ
cho đất, bà và ông K chia nhau và việc bà bán cho ông Thổ Bộ cũng chỉ nói miệng,
không làm giấy tờ gì. Khi nhận đất và bán đất, bà chỉ nhớ ranh là cái giếng đào và
cây Anh Đ. Sau đó, ông Bộ bán phn đất này cho bà Tư H Hiện trạng thửa đất này
hiện nay như thế nào bà không biết. Phn đất thửa 72 ông K sử dụng một thời gian
rồi bán cho ai bà cũng không biết.
Ông Thổ B và ông Nguyễn T thống nhất trình bày: Các ông không có mâu
thuẫn gì với nguyên đơn, bị đơn. Về nguồn gốc thửa đất số 63, 72 tờ bản đồ số 13,
bản đồ địa chính phường X là của ông Sang Văn K (đ chết). Phn đất thửa 72,
ông Ký bán cho bà Vũ Thị M, bà M bán cho ông T2. Phn đất thửa 63 ông K chia
cho em ruột là bà Thị V, sau đó bà V bán cho ông Thổ B, ông B bán cho bà Tư H
(m bà Đng Thị Minh N).
Thời điểm ông Ký sử dụng, bán cho bà M và chia cho bà Thị V thì phn đất
này được tách làm 2 thửa. Ranh đất giữa 2 bên là ranh thng. Phn đất bán cho bên
bà M là ranh thng, tuy nhiên phn này đất dài hơn phn giao cho bà Thị V. Phía
cuối đất của 2 bên có 1 cái giềng, giếng thuộc về bên bà V. Nhìn trên bản trích lục
hiện trạng thửa đất số 1927/2023 ngày 19/5/2023 thì hiện trạng 02 thửa đất vẫn
như cũ. Chúng tôi xác định cái giếng nằm tại vị trí mốc số 2, 18. Ranh đất trước
kia ông Ký chia 2 phn có ranh là điểm mốc 2,18 theo trích lục. Chúng tôi là hàng
xóm có rẫy đối diện nên biết được thời điểm ông K sử dụng khu đất này và ông K
cắt 2 phn như trên. Thời điểm ông Ký cắt đất bán và giao cho bà V thì ranh thể
hiện như vậy còn sau này qua nhiều người chuyển nhượng nên chúng tôi không
thể xác định được ranh giới quyền sử dụng đất của các bên đến đâu.
6
Bà Vũ Thị M trình bày: Quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 72, tờ bản đồ
số 13, phường X, có nguồn gốc là do chồng bà mua từ trước năm 1986, sau khi
mua đất thì bỏ không, đến năm 1986 bà từ quê vào và trồng cà phê. Năm 1987, bỏ
hoang vì bà lên xã X (nay là phường X), thành phố Long Khánh dạy học trên đó,
phn đất này vợ chồng bà giao lại cho em chồng là ông Đỗ Xuân S và bà Lê Thị
M quản lý nhưng họ cũng bỏ không. Sau này ông S và bà M là người làm thủ tục
kê khai, đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với diện tích
hơn 2.000m
2
. Đến năm 2014, ông S và bà M sang tên lại cho bà và bà bán lại cho
ông T2 theo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/6/2017, được
công chứng tại Văn phòng công chứng X. Bà bán theo giấy đỏ, giá thỏa thuận tại
thời điểm chuyển nhượng là hơn 1 tỷ/1 sào và bà chỉ bán hơn 2 sào theo sổ đỏ,
không có chuyện bán 04 sào như ông Thành trình bày. Khi bán đất, phn đất này
không canh tác đ lâu, bà không biết ranh giới cụ thể nên không chỉ ranh cho ông
T mà ông dựa vào việc chỉ ranh của người môi giới bán đất. Trước khi bà bán đất
cho ông T vào năm 2017, giữa bà và bà N (trước đây chỉ biết bà Tư H, m của bà
N) không có tranh chấp với nhau, giữa 02 thửa đất không có ranh giới cụ thể và
trên đất bà Tư H có 01 giếng đào, bà là người xin nước về tưới cây cà phê vào năm
1986.
Bà Đng Thị Minh N trình bày: Nguồn gốc thửa đất 63, tờ bản đồ số 13,
phường X là phn đất bà mua của ông Thổ B năm 1987. Khi mua diện tích là
khoảng 2 sào, đo bằng thước dây. Năm 2007, bà được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, năm 2021 bà làm thủ tục chuyển từ sổ đỏ sang sổ hồng với diện tích
2124m
2
, phn đất này được bà sử dụng ổn định cho đến khi bán cho nguyên đơn
ông T1 vào năm 2022. Trong quá trình sử dụng đất, không xảy ra tranh chấp với
thửa đất số 72, cho tới khi ông T2 mua lại đất từ bà M lấn chiếm sang phn đất của
bà và bà có làm đơn đề nghị Uỷ ban nhân dân phường X hòa giải, buộc ông T2
phải trả lại đất đ lấn chiếm cho bà nhưng kết quả hòa giải không thành. Đơn yêu
cu giải quyết tranh chấp của bà được Ủy ban nhân dân phường X hòa giải ngày
26/9/2020, hòa giải chung với đơn của ông T2 và bà ủy quyền cho ông Lâm Văn
G đại diện. Không có việc bà thỏa thuận và xác định lại ranh mốc giữa hai thửa đất
với ông T2 vào năm 2019.
Bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà là vợ của ông Thổ B, phn đất hiện là thửa
đất số 63 phường X là chồng bà bán cho bà Tư H vào năm 1996 chứ không phải
bán cho bà N năm 1987, chữ ký trong giấy chuyển nhượng đất viết tay mà bà N
nộp cho cơ quan nhà nước (bản photo) do ông T cho bà xem cũng không phải chữ
ký của chồng bà. Diện tích chuyển nhượng là 1300m
2
chứ không phải là hơn 2 sào
như bà N trình bày tại Tòa. Bà H xác định, bà không còn lưu giữ bất kỳ giấy tờ gì
liên quan đến nguồn gốc thửa đất cũng như giấy tờ bán đất cho bà Tư H.

7
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2025/DS-ST ngày 21 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai (nay là Toà án nhân
dân khu vực 4 – Đồng Nai) tuyên xử:
Chấp nhận một phn yêu cu khởi kiện của nguyên đơn ông T1, về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cu tháo dỡ công trình xây dựng, di dời tài
sản trên đất và yêu cu bồi thường thiệt hại” đối với bị đơn ông T2.
Buộc bị đơn ông T2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ Thị
Mỹ Hoa có nghĩa vụ liên đới tháo dỡ, di dời công trình xây dựng và tài sản trên
phn đất lấn chiếm, bao gồm 01 căn nhà tạm có kết cấu móng, cột sắt, xà gồ sắt
mái tôn, vách hệ khung sắt + tôn cao trung bình 3,7m, nền xi măng có diện tích
42,8m
2
, 06 cây mai loại 1, 12 cây mai loại 2, trả lại cho nguyên đơn ông T1 và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Hồng P phn đất có diện
tích 906,5m
2
, bao gồm phn được giới hạn bởi các điểm (2,3,36,37,18,2) có diện
tích 800m
2
, phn được giới hạn bởi các điểm (3,45,35,36,3) có diện tích 82,6m
2
và
phn được giới hạn bởi các điểm (2,2A,25,45,3,2) có diện tích 23,9m
2
, đất thuộc
một phn thửa đất số 63, tờ bản đồ số 13, phường X, thành phố Long Khánh, tỉnh
Đồng Nai, theo Trích lục và đo vẽ hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số
1927/2023 của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai, chi nhánh Long Khánh,
ký duyệt ngày 19/5/2023 và công văn số 79/VPĐK.CNLK ngày 14/3/2025 của
Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai, chi nhánh Long Khánh.
Không chấp nhận yêu cu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cu bị đơn
bồi thường thiệt hại với số tiền 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi triệu).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng cáo
của các đương sự.
Kháng cáo: Ngày 04/4/2025, nguyên đơn ông T1 kháng cáo bản án sơ thẩm,
đề nghị cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cu bồi
thường thiệt hại của nguyên đơn số tiền 250.000.000 đồng.
Ngày 04/4/2025, bị đơn ông T2 kháng cáo bản án sơ thẩm, đề nghị cấp phúc
thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cu khởi kiện
của ông T1.
Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên toà:
Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đ thực hiện đúng quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn làm đơn kháng cáo trong hạn luật
định nên được xem xét.
Về đường lối giải quyết: Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn ông T1, của bị
đơn ông T2 và các tài liệu chứng cứ đ thu thập được trong quá trình giải quyết vụ
án. Nhận thấy:
Đối với kháng cáo của nguyên đơn ông T1:

8
Quá trình giải quyết vụ án, ông T1 yêu cu ông Thành phải bồi thường thiệt hại với
số tiền là 250.000.000đ, tương ứng với thời gian cản trở việc sử dụng đất là 30 tháng (từ
tháng 9/2022 đến tháng 3/2025) do làm ảnh hưởng đến công việc xây tường rào, trồng cây
và tiền cho thuê đất hoạt động kinh tế khác trên thửa đất của nguyên đơn. Tại cấp phúc
thẩm, ông T1 nộp thêm tài liệu để chứng minh thiệt hại là bản photo giấy giao nhận tiền,
bản photo hợp đồng thuê đất ngày 20/9/2022 giữa ông V T P với T1. Theo ông Thanh thì
do bị đơn không trả đất nên dẫn đến thiệt hại về việc giao kết hợp đồng cho thuê với ông
P không thực hiện được. Lỗi này buộc phía ông Thành phải thanh toán.
Xét thấy, tại cấp sơ thẩm ông Thanh có yêu cu bị đơn bồi thường 250.000.000đ
nhưng không có tài liệu chứng minh thiệt hại. Nay ở cấp phúc thẩm ông Thanh cung cấp
bổ sung. Qua tài liệu ông T2 vừa cung cấp thấy rằng giữa ông với bên thuê là ông P có ký
hợp đồng thuê đất vào ngày 20/9/2022 nhưng không có tài liệu nào chứng minh có sự thiệt
hại, phải bồi thường từ phía ông Thanh cho ông P. Mc khác, phn đất tranh chấp đến nay
vẫn chưa được Tòa án các cấp giải quyết xong nhưng ông Thanh vẫn phát sinh giao dịch
cho thuê đất nên yêu cu bồi thường thiệt hại là không có cơ sở chấp nhận.
Đối với kháng cáo của bị đơn ông T2:
Quá trình giải quyết, bị đơn ông T2 cho rằng ông mua của bà Vũ Thị M phn
đất có diện tích khoảng 4200m
2
, trên cơ sở hiện trạng và ranh giới do các bên chỉ
dẫn. Căn cứ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 13/6/2017 giữa bà
Vũ Thị M với ông T2, được Văn phòng công chứng Xuân An chứng thực đ xác
định, bà M chỉ chuyển nhượng cho ông T2 với diện tích 2232,6m
2
thuộc thửa đất
số 72, tờ bản đồ số 13, phường X.
Tại cấp sơ thẩm, bà Mai xác định bà không biết ranh giới cụ thể của thửa
đất nên không chỉ ranh cho ông Thành mà ông Thành căn cứ vào chỉ dẫn của người
môi giới đất.
Còn với bà Đng Thị Minh N cũng xác định, giữa bà và ông T2 không có
việc thỏa thuận lại ranh mốc như ông T2 trình bày mà ngược lại bà là người đ nộp
đơn cho Ủy ban nhân dân phường X để yêu cu ông T2 trả lại phn đất đ lấn
chiếm, điều này được thể hiện cụ thể tại biên bản hoà giải ngày 26/9/2020 của Uỷ
ban nhân dân phường X, tỉnh Đồng Nai.
Như vậy, lời khai của bị đơn về việc nhận chuyển nhượng từ bà Vũ Thị M
diện tích hơn 4000m
2
và việc bà Nguyệt thoả thuận xác định lại ranh giới đất với
bị đơn là không có căn cứ.
Tại cấp phúc thẩm, lời khai của các bên không phát sinh thay đổi gì khác
nên chỉ có cơ sở ghi nhận phn đất của ông Thành theo như Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đ cấp cho ông với diện tích 2.232,6 m
2
.
Theo Trích lục và đo vẽ hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số 1927/2023
thể hiện: Phn ranh do các đương sự chỉ dẫn và sau khi chồng ghép lên ranh bản
đồ địa chính của thửa đất số 63 và thửa đất số 72, phn đất bị đơn đang sử dụng
9
nhiều hơn phn diện tích được cấp và có chồng lấn qua thửa đất 63 của nguyên
đơn với diện tích tổng cộng là 906,5m
2
bao gồm phn được giới hạn bởi các điểm
(2,3,36,37,18,2) có diện tích 800m
2
, phn được giới hạn bởi các điểm
(3,45,35,36,3) có diện tích 82,6m
2
và phn được giới hạn bởi các điểm
(2,2A,25,45,3,2) có diện tích 23,9m
2
theo công văn số 79/VPĐK.CNLK ngày
14/3/2025 của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai, chi nhánh Long Khánh.
Trên cơ sở đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cu của nguyên đơn, xác định bị
đơn lấn chiếm phn đất diện tích 906,5m
2
thuộc thửa đất số 63, cũng như buộc di
dời nhà tạm, cây trồng trên đất trả lại cho nguyên đơn là phù hợp, có căn cứ.
Từ phân tích trên, căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự đề nghị
Hội đồng xét xử phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo nguyên đơn ông T1, của
bị đơn ông T2. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2025/DS-ST ngày
21/3/2025 của Toà án nhân dân thành phố Long Khánh (nay là Toà án nhân dân
khu vực 4 – Đồng Nai).
Án phí dân sự phúc thẩm: Các đương sự phải nộp theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm
tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận
định:
[1] Về đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông T1 và bị đơn ông
T2 làm trong thời hạn và đúng quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem
xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, đương sự trong vụ án: Tòa
án cấp sơ thẩm đ xác định đúng và đy đủ.
[3] Về nội dung kháng cáo của nguyên đơn:
Ông T1 kháng cáo yêu cu Toà án cấp phúc thẩm xem xét buộc bị đơn ông
T2 phải bồi thường thiệt hại cho ông số tiền 250.000.000 đồng tương ứng với thời
gian cản trở việc sử dụng đất là 30 tháng (từ tháng 9/2022 đến tháng 3/2025) do
làm ảnh hưởng đến công việc xây tường rào, trồng cây và tiền cho thuê đất hoạt
động kinh tế khác trên thửa đất của nguyên đơn.
Tại cấp phúc thẩm, ông T1 nộp bổ sung Hợp đồng thuê đất ngày 20/9/2022
và Giấy giao nhận tiền không đề ngày, tháng, năm 2022 giữa ông T1 và người thuê
đất là ông P để làm căn cứ xác định thiệt hại do bị ông T2 lấn chiếm quyền sử
dụng đất gây ra.
Nhận thấy, trong quá trình giải quyết vụ án, lời khai của các bên đương sự
đều thống nhất xác định về thời gian nhận chuyển nhượng đất từ chủ cũ, việc quản
lý canh tác sử dụng phn đất tranh chấp. Cụ thể, từ năm 2017 ông T2 nhận chuyển
nhượng đất (thửa 72) tờ bản đồ số 13, phường X, đối với phn đất có tranh chấp
10
ông T2 làm 01 căn nhà tạm, năm 2020 trồng cây (trồng cây mai và đt chậu cây
kiểng). Năm 2022, ông T1 nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 63, tờ
bản đồ số 13 toạ lạc tại phường X từ bà Đng Thị Minh N. Nguyên đơn cũng xác
định thời điểm nhận chuyển nhượng thửa đất trên cũng biết bị đơn đ làm nhà tạm,
trồng cây trên đất, trước đó đ có tranh chấp việc sử dụng đất với bà N.
Tại cấp phúc thẩm, ông T1 cung cấp tài liệu có nội dung thỏa thuận cho thuê
đất nhưng văn bản không có chứng thực, cũng không có lời khai xác nhận của ông
P về việc thỏa thuận thuê đất như ông T1 trình bày.
Như vậy, ông T1 không cung cấp được chứng cứ để xác định hành vi quản
lý, sử dụng phn đất tranh chấp của bị đơn dẫn đến thiệt hại phát sinh như trình
bày và yêu cu của nguyên đơn nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn.
[4] Về nội dung kháng cáo của bị đơn:
Bị đơn ông T2 kháng cáo yêu cu Toà án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm,
không chấp nhận yêu cu khởi kiện của nguyên đơn.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ có đủ cơ sở xác định:
Thửa đất số 63, tờ bản đồ số 13 toạ lạc tại phường X (nay là phường Long
Khánh, tỉnh Đồng Nai) do ông T1 nhận chuyển nhượng từ bà Đng Thị Minh N.
Phn diện tích đất đ được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH 889546
cấp ngày 29/6/2007 cho bà Nguyệt. Năm 2022, Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh
Đồng Nai cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất cho bà N. Ngày 31/8/2022, bà N chuyển nhượng toàn bộ
thửa đất số 63 cho ông T1, được Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đồng Nai – chi
nhánh Long Khánh chỉnh lý trang 4 ngày 17/9/2022.
Bị đơn ông T2 cho rằng, ông nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất thửa
đất số 72, tờ bản đồ số 13, phường Xuân Hoà, thành phố Long Khánh (nay là
phường Long Khánh, tỉnh Đồng Nai) của bà Vũ Thị M, diện tích chuyển nhượng
là 4.200m
2
trên cơ sở hiện trạng và ranh giới do các bên chỉ dẫn (phn diện tích
đất bao gồm thửa 72 và một phn thửa số 63, tờ bản đồ số 13 hiện nay). Ngày
13/6/2017, hai bên ký đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại Văn phòng công
chứng Xuân An, chuyển nhượng thửa đất số 72, tờ bản đồ số 13 toạ lạc tại phường
Xuân Hoà, thành phố Long Khánh (nay là phường Long Khánh, tỉnh Đồng Nai),
diện tích 2.232,6m
2
cho ông T2 nhưng thực tế ông nhận sử dụng đất theo hiện
trạng. Quá trình sử dụng có thỏa có thỏa thuận xác định ranh đất với bà Đng Thị
Minh N.
Tuy nhiên, lời khai của bà Vũ Thị M trong quá trình giải quyết vụ án xác
định: Thửa đất số 72, tờ bản đồ số 13 chỉ có diện tích 2.232,6m
2
, đồng thời bà Mai
chỉ thỏa thuận chuyển nhượng cho ông Thành diện tích đất đúng theo Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất bà đ được cấp. Không có sự việc bà thoả thuận chuyển

11
nhượng cho ông T2 4.200m
2
như ông trình bày. Mt khác, do bà M không sinh
sống trên đất, không canh tác nhiều năm nên bà cũng không biết ranh giới cụ thể
của thửa đất, không chỉ ranh giới thửa đất cho ông T2 mà ông chỉ dựa vào chỉ dẫn
của người môi giới đất. Lời khai của bà Đng Thị Minh N cũng xác định giữa bà
và ông T2 không có sự thoả thuận lại ranh mốc như ông T2 trình bày.
Như vậy, ông T2 quản lý, sử dụng diện tích đất 4.200m
2
theo hiện trạng
nhưng diện tích đất nhận chuyển nhượng từ bà M và được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng là 2.232,6m
2
, phn còn lại không có căn cứ chứng minh việc sử
dụng đất là hợp pháp. Ông T2 kháng cáo nhưng không cung cấp bổ sung thêm
được chứng cứ mới.
Từ những phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy
Tòa án cấp sơ thẩm đ giải quyết nội dung tranh chấp phù hợp với quy định pháp
luật, nguyên đơn và bị đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng
minh nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các đương sự.
[5] Án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của nguyên đơn, bị đơn không
được chấp nhận nên các đương sự phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy
định.
[6] Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với nhận
định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông T1 và bị đơn ông T2. Giữ
nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 11/2025/DS-ST ngày 21/3/2025 của Toà án nhân
dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai (nay là Toà án nhân dân khu vực 4 –
Đồng Nai).
Căn cứ các Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 157, Điều 165, Điều
293 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Áp dụng các Điều 163, 164, 166, 170, 175, 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự
năm 2015; các Điều 99, 166, 168, 170 và Điều 203 Luật Đất đai năm 2013;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ
Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phn yêu cu khởi kiện của nguyên đơn ông T1, về việc
“Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cu tháo dỡ công trình xây dựng, di dời tài
sản trên đất và yêu cu bồi thường thiệt hại” đối với bị đơn ông T2.
12
Buộc ông T2 và bà Võ Thị Mỹ H có nghĩa vụ liên đới tháo dỡ, di dời toàn bộ
phn công trình xây dựng và tài sản trên phn đất lấn chiếm, bao gồm: 01 căn nhà
tạm có kết cấu móng, cột sắt, xà gồ sắt mái tôn, vách hệ khung sắt + tôn cao trung
bình 3,7m, nền xi măng có diện tích 42,8m
2
, 06 cây mai loại 1, 12 cây mai loại 2;
trả lại cho ông T1 và bà Nguyễn Thị Hồng P phn đất có tổng diện tích là 906,5m
2
,
bao gồm: Diện tích đất 800m
2
được giới hạn bởi các điểm (2,3,36,37,18,2); diện
tích đất 82,6m
2
được giới hạn bởi các điểm (3,45,35,36,3) và diện tích đất 23,9m
2
được giới hạn bởi các điểm (2,2A,25,45,3,2); thuộc một phn thửa đất số 63, tờ
bản đồ số 13, phường X, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, theo Trích lục và
đo vẽ hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số 1927/2023 ngày 19/5/2023 và văn
bản số 79/VPĐK.CNLK ngày 14/3/2025 của Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Đồng
Nai, chi nhánh Long Khánh.
Không chấp nhận yêu cu khởi kiện của nguyên đơn ông T1 về việc buộc
ông T2 bồi thường thiệt hại số tiền 250.000.000 đồng (Hai trăm năm mươi triệu
đồng).
2. Về chi phí tố tụng: Buộc ông T2 phải hoàn trả cho ông T1 số tiền chi phí
tố tụng là 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
3. Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Ông T2 phải chịu 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn),
bao gồm 300.000 đồng án phí về yêu cu tranh chấp quyền sử dụng đất và 300.000
đồng án phí về yêu cu tháo dỡ công trình xây dựng, di dời tài sản trên đất.
Ông T1 phải chịu 12.500.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm nghìn), được
tính trừ vào số tiền 2.800.000 (Hai triệu tám trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí ông
T1 đ nộp theo Biên lai thu tiền số 0006288 ngày 06/12/2022 của Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Long Khánh (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 4 –
Đồng Nai); ông T1 còn phải nộp số tiền 9.700.000 đồng (Chín triệu bảy trăm nghìn
đồng) án phí.
Án phí dân sự phúc thẩm: Ông T1 phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn
đồng), được tính trừ vào số tiền tạm ứng án phí đ nộp là 300.000 đồng theo Biên
lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0018286 ngày 11/4/2025 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Long Khánh (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực
4 – Đồng Nai).
Ông T2 phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự phúc
thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đ nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu
tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0018334 ngày 18/4/2025 của Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Long Khánh (nay là Phòng Thi hành án dân sự khu vực 4 –
Đồng Nai).
Ông T1, ông T2 đ nộp đủ án phí.
13
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự (đ sửa đổi, bổ sung) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b
và 9 Luật thi hành án dân sự (đ sửa đổi, bổ sung); thời hiệu thi hành án được thực
hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (đ sửa đổi, bổ sung).
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Nai (1);
- Tòa PT TANDTC tại TP. Hồ Chí Minh (1);
- TAND khu vực 4 – Đồng Nai (1);
- Phòng THADS khu vực 4 – Đồng Nai (1);
- Đương sự (4);
- Lưu (4).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đào Thị Kiều Vân
14
Thành viên Hội đồng xét xử
Thẩm phán-Chủ tọa phiên tòa
HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
PHÚC THẨM
Các thẩm phán
Nguyễn Văn Nam –
Nguyễn Thị Lệ Trang
Thẩm phán - Chủ tọa
phiên tòa
Đào Thị Kiều Vân
15
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 29/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 21/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 02/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm