Bản án số 48/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 của TAND huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 48/2018/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 48/2018/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 48/2018/HS-ST ngày 29/08/2018 của TAND huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Văn Lãng (TAND tỉnh Lạng Sơn) |
Số hiệu: | 48/2018/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 29/08/2018 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 48/2018/HS-ST NGÀY 29/08/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 44/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:
Hà Văn V; sinh ngày 07/11/1983, tại huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi sinh sống: Thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hà Văn Đ và bà Nông Thị H; vợ: Hoàng Bích V; con: Có 01 con sinh năm 2009; tiền án: Bị cáo có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn xét xử ngày 25/6/2014 xử phạt 09 tháng tù giam đến nay chưa được xóa án tích; nhân thân: Chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 14/6/2018 cho đến nay. Có mặt.
- Bị hại: Chị: Hứa Thị K, sinh năm 1986
Địa chỉ: Khu II, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị: Mạc Thị D, sinh năm 1985
Địa chỉ: Đường N, Khu I, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 15/5/2018, chị K bị kẻ gian lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J2 Prime tại khu chợ rau thuộc khu II, xã T. Qua theo dõi Camera gần đó chị K nhìn thấy một người đàn ông đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc điện thoại. Nhận được tin báo, Công an đồn T đã tiến hành xác minh và xác định Hà Văn V, sinh ngày 07/11/1983; trú tại thôn P, xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn là người thực hiện hành vi trộm cắp chiếc điện thoại của chị K.
Ngày 16/5/2018, Công an huyện V đã ra yêu cầu định giá tài sản đối với chiếc điện thoại trên. Ngày 21/5/2018 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng xám có ốp bằng nhựa dẻo kí hiệu là Galaxy J2 Prime số ký hiệu máy SM-G532G/DS, có IMEL: 359046083419671, là tài sản của vụ trộm cắp xảy ra ngày 15/5/2018 tại Khu II xã T, huyện V có giá trị 600.000 đồng. Ngày 14/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V đã tiến hành bắt Hà Văn V để tạm giam.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và tại phiên tòa Hà Văn V khai nhận: Khoảng 09 giờ ngày 15/5/2018, Hà Văn V ngồi ăn mận ở gần ngã tư chợ rau thuộc khu II xã T, huyện V thì nhìn thấy 01 chiếc điện thoại được để trong chiếc làn nhựa màu đỏ phía sau chị Hứa Thị K, nên Hà Văn V đã nảy sinh ý định trộm cắp. V đi đến phía sau chị K, gần chiếc làn để điện thoại. Quan sát chị K và mọi người không để ý, V đã dùng tay phải cầm lấy chiếc điện thoại và cho vào túi quần đang mặc rồi nhanh chóng đi ra khỏi nơi đó. Sau đó, Hà Văn V đi đến đường N khu I, xã T, huyện V và bán chiếc điện thoại cho chị Mạc Thị D, trú tại N Khu I, xã T, huyện V với giá 220.000 đồng. Hà Văn V đã dùng số tiền bán điện thoại lên khu đồi K, khu I, xã T mua ma túy với người đàn ông tên D được 02 gói ma túy với giá 200.000 đồng và sử dụng hết. Số tiền còn lại V chi tiêu cá nhân hết.
Đối với Mạc Thị D là người mua chiếc điện thoại Samsung Galaxy J2 Prime với Hà Văn V, do không biết chiếc điện thoại trên là tài sản do V phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là phù hợp.
Tại Cơ quan điều tra cũng như đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị Mạc Thị D không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền mà chị bỏ ra mua chiếc điện thoại với bị cáo V.
Tại bản Cáo trạng số 48/CT-VKS-HS ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Hà Văn V ra trước Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn để xét xử về tội „„Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia tại phiên tòa, vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo Hà Văn V về tội „„Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 09 (chín) tháng đến 01 (một) năm tù giam.
Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Hà Văn V.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị truy thu số tiền 220.000 đồng do thu lợi bất chính bán chiếc điện thoại có được sung ngân sách Nhà nước.
Xác nhận ngày 18/7/2018 Cơ quan điều tra Công an huyện V đã trả chiếc điện thoại cho bị hại Hứa Thị K.
Án phí bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà và xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng thời hoàn toàn phù hợp với biên bản thu giữ đồ vật, phù hợp với các tài liệu khác đã thu thập được trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 15 tháng 5 năm 2018, bị cáo Hà Văn V đã trộm lấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J2 Prime của Hứa Thị K. Tại bản Kết luận số: 03/KL-HĐĐGTS, ngày 21/5/2018 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng xám có ốp bằng nhựa dẻo kí hiệu là Galaxy J2 Prime số ký hiệu máy SM-G532G/DS, có IMEL: 359046083419671, là tài sản của vụ trộm cắp xảy ra ngày 15/5/2018 tại Khu II, xã T, huyện V có giá trị 600.000 đồng. Bị cáo Hà Văn V, lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của bị hại, đã nẩy sinh ý định lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 600.000đ, mục đích mang đi mua ma túy sử dụng và tiêu sài, phục vụ nhu cầu bản thân, bị cáo đã thực hiện xong hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại trị giá 600.000 đồng. Tuy nhiên, số tài sản trộm cắp của bị cáo có giá trị dưới 2.000.000 đồng, nhưng trong lúc phạm tội bị cáo đã có 01 tiền án về tội trộm cắp chưa được xóa án tích. Do đó lần phạm tội này bị cáo đủ yếu tố khởi tố, truy tố xét xử về tội trộm cắp tài sản. Nhận thấy Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Hà Văn V về tội trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó gây mất trật tự trị an của địa phương, gây bất bình trong dư luận xã hội. Bị cáo là người có thể chất phát triển bình thường, có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lười lao động, mắc vào tệ nạn xã hội, mục đích phục vụ lợi ích sử dụng ma túy và tiêu sài của bản thân nên bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Vì thế bị cáo phải chịu hình phạt nhất định tương xứng với hành vi phạm tội đã thực hiện nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, đã có 01 tiền án, là thành phần nghiện hút ma tuý, lười lao động, vì nghiện ma tuý nên phạm tội. Tại phiên toà khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Trong thời gian chưa được xoá án tích bị cáo lại tiếp tục phạm tội, không tính là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tiền án chỉ là tình tiết định tội đối với bị cáo. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo không chịu tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà còn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự thì “người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Hội đồng xét xử xét thấy bản thân bị cáo là người nghiện, không sở hữu tài sản gì, có giá trị (thể hiện tại biên bản xác minh ngày 26/6/2018 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn). Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát, đề nghị về mức hình phạt, tình tiết giảm nhẹ, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; xử lý vật chứng. Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ, nên được chấp nhận.
[7] Xử lý vật chứng: Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Xét thấy cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn, đã trao trả 01 chiếc điện thoại Sam sung Galaxy J2 Prime số ký hiệu máy SM-G532G/DS, có IMEL: 359046083419671 màu vàng xám cho chị Hứa Thị K là chủ sở hữu hợp pháp được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tại Cơ quan điều tra và đơn xin xét xử vắng mặt của chị Mạc Thị D không yêu cầu bị cáo phải trả cho chị D số tiền 220.000 đồng mà chị D bỏ ra mua chiếc điện thoại với bị cáo Hà Văn V. Xét thấy chị Hà Thị D không yêu cầu bị cáo trả số tiền 220.000 đồng là hoàn toàn tự nguyện được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tuy nhiên, số tiền 220.000 đồng là do bị cáo phạm tội mà có cần phải truy thu sung ngân sách Nhà nước.
[9] Về án phí: Bị cáo Hà Văn V phải chịu án phí hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ theo điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn V phạm tội: Trộm cắp tài sản.
Xử phạt bị cáo Hà Văn V 01 (một) năm tù giam, thời hạn tính từ ngày 14 tháng 6 năm 2018.
2. Xử lý vật chứng: Xác nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, tỉnh Lạng Sơn đã trả chiếc điện thoại Sam sung Galaxy J2 Prime số ký hiệu máy SM-G532G/DS, có IMEL: 359046083419671 màu vàng xám cho chị Hứa Thị K là chủ sở hữu hợp pháp.
Truy thu 220.000 (hai trăm hai mươi nghìn) đồng của bị cáo Hà Văn V do phạm tội mà có sung ngân sách Nhà nước.
3. Về án phí: Buộc các bị cáo Hà Văn V phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm sung ngân sách Nhà nước.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!