Bản án số 42/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 của TAND huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 42/2020/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 42/2020/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 42/2020/HS-ST ngày 12/05/2020 của TAND huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định về tội trộm cắp tài sản |
---|---|
Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Giao Thủy (TAND tỉnh Nam Định) |
Số hiệu: | 42/2020/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 12/05/2020 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 42/2020/HS-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 12 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐXXST- HS ngày 29 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:
Hoàng Văn D; sinh năm 1974, tại huyện GT, tỉnh NĐ; nơi cư trú: Xóm 5 QT, xã GT1, huyện GT, tỉnh NĐ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn Ch (đã chết); con bà Cao Thị S; Sinh năm 1946; có vợ là: Lê Thị T, sinh năm 1974; và có 02 con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 1999; tiền án: Ngày 28/12/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ra trại ngày 23/11/2018; tiền sự: Không; nhân thân: Năm 2007, bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Năm 2008, bị Tòa án nhân dân thị xã Bắc Kạn xử phạt 12 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Năm 2010, bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xử phạt 54 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/02/2020 cho đến nay; hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định “có mặt”.
Bị hại: Anh Ngô Kim A; sinh năm 1982; nơi cư trú: Xóm NH, xã XT, huyện XT, tỉnh NĐ; “vắng mặt”;
Người làm chứng:
Anh Nguyễn Thanh L; “vắng mặt”;
Anh Vũ Văn Thủy; “vắng mặt”;
Anh Phạm Văn Chứng; “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 01giờ ngày 03/02/2020, Hoàng Văn D điều khiển xe máy nhãn hiệu WARM BKS 61T8 - 2956 từ nhà đi mục đích xem ai có sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khi D đi đến Ủy ban nhân dân xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định thấy dãy nhà làm việc của Công an xã Giao Tiến bật điện, cửa phòng mở nên D đã dựng xe ở ngoài cổng Ủy ban và đi bộ vào, khi đến phòng nghỉ của anh Ngô Kim A là cán bộ Công an đang ngủ trên giường, bên cạnh có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 0PP0 F3, D lấy trộm chiếc điện thoại nhét vào cạp quần đang mặc đi ra đến sân Ủy ban thì bị lực lượng Công an xã Giao Tiến phát hiện bắt quả tang. Thu của D chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 0PP0 F3vỏ màu vàng chanh, ốp lưng bằng nhựa, D khai là chiếc điện thoại D vừa lấy trộm ở phòng Công an, 01 con dao phay dài 40cm. Ngoài ra thu giữ của D 01 xe máy nhãn hiệu WARM, biển kiểm sát 61T8 - 2956, 01 đèn pin và một đoạn gỗ hình hộp chữ nhật dài 41cm. Lực lượng Công an xã Giao Tiến đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ niêm phong vật chứng theo quy định và bàn giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy để điều tra giải quyết theo thẩm quyền.
Ngày 05/02/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện Giao Thủy đã định giá và xác định: 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu 0PP0 F3 vỏ màu vàng chanh, ốp lưng bằng nhựa mềm tại thời điểm có giá trị là 1.500.000đồng.
Tại bản cáo trạng số: 38/CTR ngày 08/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy đã truy tố bị cáo Hoàng Văn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên bản cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự Tuyên bố Hoàng Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt Hoàng Văn D từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù. Về xử lý vật chứng: Áp dụng: khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 khúc gỗ hình chữ nhật, 01 đèn pin, 01 con dao phay thu giữ của Hoàng Văn D.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo tỏ rõ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ của vụ án có đủ cơ sở xác định: Khoảng hơn 01 giờ ngày 03/02/2020, phát hiện thấy dãy nhà làm việc của Công an xã Giao Tiến bật điện, cửa phòng mở nên Hoàng Văn D đã đi bộ vào lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu 0PP0 F3 của anh Ngô Kim A có giá trị là 1.500.000 nhét vào cạp quần đang mặc, đi ra đến sân Ủy ban thì bị lực lượng Công an xã Giao Tiến phát hiện bắt quả tang. Bị cáo đã có một tiền án về tội “trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, ngày 03/02/2020 tiếp tục trộm cắp tài sản có giá trị 1.500.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố Hoàng Văn D về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ pháp luật
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành Hành vi trộm cắp tài sản của người khác của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo đã nhiều lần phải chấp hành hình phạt tù về “Trộm cắp tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản dẫn đến phạm tội. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ ăn năn hối cải, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt chính: Hội đồng xét xử thấy cần xử phạt bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, có như vậy mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời đáp ứng công tác phòng chống tội phạm nói chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người nghiện ma túy, có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Anh Ngô Kim A đã nhận lại 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu 0PP0 F3 vỏ màu vàng chanh, ốp lưng và không có yêu cầu gì lên trách nhiệm dân sự không đặt ra.
[8] Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Warm, biển kiểm sát 61T8 - 2956 thu giữ của Hoàng Văn D là phương tiện bị cáo dùng để đi trộm cắp tài sản, tuy nhiên chưa xác định được nguồn gốc của chiếc xe nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy tách ra để tiếp tục điều tra và có biện pháp xử lý sau.
[9] Đối với 01 khúc gỗ hình chữ nhật, 01 đèn pin, 01 con dao phay thu giữ của Hoàng Văn D tuy không liên quan tới hành vi phạm tội nhưng do có giá trị thấp và bị cáo đề nghị không nhận lại nên cần tịch thu cho tiêu hủy.
[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm;
bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1.Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:
Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/02/2020.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy 01 đoạn gỗ dạng hình hộp chữ nhật, 01 đèn pin, 01 con dao loại dao phay thu giữ của Hoàng Văn D (Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 10/4/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).
3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Hoàng Văn D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!