Bản án số 40/2024/DS-PT ngày 15/08/2024 của TAND tỉnh Cao Bằng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 40/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 40/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 40/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 40/2024/DS-PT ngày 15/08/2024 của TAND tỉnh Cao Bằng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cao Bằng |
Số hiệu: | 40/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/08/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Theo đơn khởi kiện đề ngày 07/04/2023 và đơn sửa đổi bổ sung yêu cầu khởi kiện ngày 30/5/2023, bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lưu Xuân C trình bày |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH CAO BẰNG
Bản án số: 40/2024/DS-PT
Ngày: 15/8/2024
V/v “Tranh chấp quyn s dng đất”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Như
Các Thẩm phán: Ông Ngôn Ngc Viên
Bà Nông Biên Hòa
Thư ký phiên tòa: Ông Nông Hữu Duy – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân tỉnh
Cao Bằng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng tham gia phiên toà: Bà
Hoàng Thu Hằng - Kiểm sát viên.
Trong ngày 12 và ngày 15 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh
Cao Bằng xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 17/2024/TLPT-DS
ngày 10/5/2024 về việc “Tranh chấp quyn s dng đất".
Do bản án dân sự sơ thẩm số 05/2023/DS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng bị kháng cáo,
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 75/2024/QĐ-PT ngày
24 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lưu Xuân C, sinh năm: 1972( Ủy quyền cho bà Đ, Giấy
UQ ngày 02/12/2023);
Đ1 nguyên đơn: bà Đoàn Thị Đ2, sinh năm: 1974;
- Bị đơn: Ông Lô Quang C1, sinh năm: 1957;
Cùng địa chỉ: Xóm F, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng.
Đều có mặt tại phiên tòa
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Đinh Thị H - Luật
sư Văn phòng luật sư Đinh Thị H thuộc đoàn luật sư tỉnh C. Địa chỉ: SN G, tổ I,
phố V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Có mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Hoàng Thị L - Luật sư
Văn phòng luật sư H - Liên thuộc đoàn luật sư tỉnh Cao Bằng. Địa chỉ: Tổ A,
phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Có mặt
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân thành phố C, tỉnh Cao Bằng. Người đại diện theo pháp
luật ông Nguyễn Thế H1 - Chủ tịch; Có đơn xin xét xử vắng mặt
2. Bà Lê Thị D, sinh năm: 1959; Có mặt
3. Bà Đoàn Thị G, sinh năm: 1938; Vắng mặt có lý do
2
4. Ông Lưu Văn T, sinh năm: 1970; Vắng mặt có lý do
5. Chị Lưu Ngc T1, sinh năm: 1993 (Ủy quyền cho bà Đoàn Thị Đ2, Sn
1974, Giấy UQ ngày 27/11/2023).
6. Ông Lô Văn T2, sinh năm: 1981; Có mặt
Cùng địa chỉ: Xóm F, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng.
7. Bà Lô Thị D1, sinh năm: 1985 (Ủy quyền cho bà Nông Thị P, sinh năm
1985, Giấy ủy quyền ngày 02/8/2024); bà P có mặt.
Địa chỉ: Xóm F, B, thị trấn N, H, Cao Bằng.
Người làm chứng:
1. Ông Đoàn Trng V, sinh năm: 1945;
2. Ông Mã Quốc T3, sinh năm: 1968;
Cùng địa chỉ: Xóm G, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng.
3. Ông Nông Quang V1, sinh năm: 1961;
4. Bà Nông Thị V2, sinh năm: 1950;
5. Ông Lương Trung Đ3; sinh năm: 1963;
6. Ông Lô Đức T4; sinh năm: 1965, Bí thư kiêm trưởng xóm F, xã V, thành
phố C, tỉnh Cao Bằng.
Cùng địa chỉ: Xóm F, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng.
7. Nông Từ A, sinh năm: 1988;
Địa chỉ: Tổ A, phường S, thành phố C, tỉnh Cao Bằng.
Tất c nhng ngưi lm chng đu vng mt.
- Ngưi kháng cáo: Bị đơn Lô Quang C1, người có quyền li ngha vụ liên quan
Lê Thị D, Lô Văn T2, Lô Thị D1
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đ ngy 07/04/2023 v đơn sa đổi bổ sung yêu cầu khởi
kiện ngày 30/5/2023, bn tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lưu Xuân C
trình bày: Về nguồn gốc đất tranh chấp là của ông bà nội để lại cho bố mẹ tôi Lưu
Chân T5 (đã chết năm 1996), mẹ là Lưu Thị H2 (đã chết năm 2013), bố mẹ tôi có
thừa kế lại cho tôi. Thửa đất tranh chấp số 98, tờ bản đồ số 347 – b – III, diện tích
3690 m
2
mang tên tôi Lưu Xuân C, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(GCNQSDĐ) do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 05/7/1999. Năm 2018 nhà
nước thu hồi đất để thực hiện xây dựng công trình Trường quân sự tỉnh C là
281,6m
2
. Diện tích hiện nay còn lại là 3408,4m
2
. Tứ cận tiếp giáp: Phía đông giáp
đất ông Lô Quang C1, phía Tây giáp đất ông Hoàng Văn C2, phía Bắc giáp đất T6
quân sự, phía Nam giáp đường quốc lộ. Từ lúc bố mẹ tôi còn sống có để lại một
con đường mòn để gia đình bà Đoàn Thị G đi nhờ canh tác nông nghiệp, phía trong
con đường gia đình tôi có trồng một dãy tre làm hàng rào tránh Trâu Bò phá hoại
cây cối và hoa màu, phần diện tích đường mòn và diện tích trồng tre đều nằm trong
GCNQSĐ của gia đình tôi.
Thửa đất trên năm nào gia đình tôi cũng đều trồng sắn và rau màu với các
loại cây ăn quả. Năm 2020, ông C1 tự ý san gạt một phần thửa đất tiếp giáp với
đường quốc lộ của ông C1, quá trình san gạt, ông C1 đã thực hiện san gạt cả phần
3
diện tích đường mòn của gia đình tôi dành cho bà Gia đi lại mà không thực hiện
xác định giáp ranh trước khi san gạt.
Do thửa đất của gia đình tôi có địa hình cao khó canh tác, năm 2021 tôi đã
làm thủ tục san gạt mặt bằng thửa đất, sau khi san gạt gia đình tôi trồng hoa và đặt
cc sắt để dựng tạm hàng rào, ông C1 sang nhỏ hoa và nhổ cc sắt và có hành vi
chửi bới gia đình tôi.
Quá trình tranh chấp, năm 2020, tôi và ông C1 đã thỏa thuận lập biên bản
xác định ranh giới đất và tôi cho ông C1 xây kè gạch Vồ làm ranh giới. Nhưng nay
ông C1 không chấp hành biên bản mà tiếp tục tranh chấp lấn sang phần đất của tôi.
Hai bên gia đình đã hòa giải tại xã V lần 1 vào năm 2022, ông C1 có mặt và
nhất trí thuê đơn vị đo đạc để xác định lại mốc ranh giới. Tuy nhiên khi cán bộ, đo
theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cả bên hai gia đình thì lại tiếp tục xảy
ra mâu thuẫn, ông C1 tiếp tục lấn chiếm sang đất nhà tôi đã nhổ cột sắt và xóa vết
sơn đánh dấu ranh giới, năm 2023 tiếp tục hòa giải tại cơ sở nhưng không thành.
Nay tôi yêu cầu ông Lô Quang C1 trả lại cho gia đình tôi phần đất đã lấn chiếm
223,9m
2
nằm trong thửa đất số 98, tờ bản đồ số 347 – b – III, địa chỉ: Xóm F, xã V,
thành phố C, tỉnh Cao Bằng.
Đối với 01 tường Gạch ông C1 xây năm 2020 trên phần đất của tôi, tôi yêu
cầu tháo dỡ để trả lại đất cho tôi. Tôi nhất trí thanh toán toàn bộ chi phí vật liệu,
chi phí tháo dỡ tường rào cho ông C1 theo quy định của pháp luật.
Đồng nguyên đơn bà Đoàn Thị Đ2 (v ông C), người có quyền li ngha vụ
liên quan bà Lưu Ngc C3 (còn gái) nhất trí với trình bày của ông C.
Tại Bn tự khai ngày 24/6/2023, các biên bn hòa gii và tại phiên tòa, bị
đơn ông Lô Quang C1 trình bày: Tôi có thửa đất số 60, tờ bản đồ số 347 – b – III
(đo đạc năm 1995), nay là thửa 69, tờ bản đồ số 34 ( đo đạc năm 2015) có các
hướng tiếp giáp như sau: Phía cao giáp đất bà Đoàn Thị G, phía dưới giáp đất ông
Lương Văn N, phía đường liền kề với đất ông Lưu Xuân C.
Nguồn gốc thửa đất tranh chấp: Bố tôi là Lô Văn K (đã chết năm 1979) mẹ
tôi Đoàn Thị N1 (đã chết 1990) khai phá làm rẫy. Phía giáp đường 203 kề sát đất
ông Chuyên gia đình tôi trồng 2 khóm tre, 02 cây gỗ Xà Gài do bố tôi trồng từ năm
1954. Đến năm 1989 tôi san gạt để làm nhà ở và làm vườn, tôi để lại dải đất 223,
9m
2
giáp liền hàng tre do ông T5 (bố ông C) trồng từ năm 1954 (phần ông C bà Đ2
tranh chấp). Năm 1995 nhà nước đo đạc địa chính xác định ta độ cắm tay, tuy
nhiên thời điểm đó tôi không có mặt tại địa phương, do thời điểm đó tôi làm tại
công ty T8. Ông C đơn phương chỉ địa chính, đo phần đất gia đình tôi chưa san gạt
vào GCNQSDĐ của ông C.
Năm 2015 nhà nước đo đạc bằng máy thẩm định công khai giữa các bên liên
quan và cơ quan chức năng, số diện tích tôi đã san gạt năm 1989 đưc cấp quyền
sử dụng đất ngày 17/5/2002 diện tích 1260m
2
+ diện tích đổi đất với ông Lưu Văn
T + phần đất liền kề ông C tôi chưa san gạt, tiếp giáp với đất ông C có ranh giới rõ
ràng. Trên phần đất này gia đình tôi còn trồng cây mít và làm nhà vệ sinh, trồng
dứa. Tổng diện tích theo bản đồ năm 2015 là 1813m
2
. Năm 2020 hai bên gia đình
thỏa thuận và thống nhất ranh giới để hạ thấp mặt bằng và đã có giấy thỏa thuận,
4
bên ông C chặt tre do ông T5 trồng, tôi có chặt 02 khóm tre đây là các cây tre nhỏ
để chống lở đất phía tả ly đường 203. Sau khi hạ mặt bằng, ông C làm nhà, làm mất
hàng tre xác định ranh giới, ông C không thực hiện đúng như cam kết. Nay ông C
bà Đ2 yêu cầu khởi kiện tôi không nhất trí. Tại phiên tòa hôm nay, yêu cầu Tòa án
hủy 01 phần GCNQSDĐ của ông C đối với phần đất tranh chấp vì không đúng ranh
giới thực tế.
* Người có quyền li ngha vụ liên quan bà Lê Thị D (v ông C1), ông Lô Quang
T7, bà Lô Thị D1 (con của ông C1) nhất trí với phần trình bày của ông Lô Quang
C1 và không có trình bày bổ sung.
* Tại biên bản xác minh ngày 14/7/2023 và biên bản xác minh ngày 09/11/2023,
người có quyền li ngha vụ liên quan bà Đoàn Thị G trình bày: Tôi không có quan
hệ h hàng với nguyên đơn và bị đơn. Tôi là người có đất liền kề với nguyên đơn
và bị đơn, về làm dâu khu vực xóm F, xã V, thành phố C đến nay đã hơn 60 năm.
Đất gia đình tôi ở phía trên đất tranh chấp, giữa ông Lưu Xuân C và ông Lô Quang
C1. Gia đình tôi có đi lại trên con đường mòn là ranh giới đất giữa hai nhà, đất ông
C có rặng tre làm ranh giới còn đất ông C1 ở phía dưới đường có rãnh mương thoát
nước. Tôi không kê khai đăng ký cấp giấy chứng nhận đối với con đường mòn hiện
hai bên đang tranh chấp. Việc con đường hiện nay nằm trong GCNQSDĐ của ông
Lưu Xuân C tôi nhất trí và không có tranh chấp gì với gia đình ông Lưu Xuân C.
* Tại biên bản xác minh ngày 14/7/2023 và giấy xác nhận ngày 27/11/2023 người
có quyền li liên quan ông Lưu Văn T trình bày: Tôi không có quan hệ h hàng với
nguyên đơn và bị đơn, tôi là hàng xóm gần nhà ông C và ông C1. Về nguồn gốc
đất: Tôi có đưc đổi đất với ông Lô Quang C1, phần diện tích đất đổi giáp từ đất
nhà ông Đ3 chạy theo dc quốc lộ, đến giáp bụi tre nhà ông C. Thời gian đổi đất là
năm 2004, thời gian đổi đất, đất chưa kê khai vào sổ mục kê, diện tích đổi với ông
C1 khoảng 60m
2
. Trước kia có dãy tre làm ranh giới giữa hai bên, ông C1 là người
múc đất trước, sau đó ông C mới múc hàng tre, sau đó ông C1 xây bờ kè. Hai bên
thỏa thuận như nào tôi không nắm đưc.
Lời trình bày của các nhân chứng:
1. Tại biên bản xác minh ngày 14/7/2023 ông Đoàn Trng V trình bày: Tôi không
có quan hệ h hàng với nguyên đơn và bị đơn. Tôi là th xây kè nhà ông Lô Quang
C1 thuê. Thời điểm tôi xây 01 bờ kè Đá hộc và 01 kè gạch Vồ tôi thấy hiện trạng
đã san múc bụi tre phần ngoài, còn 01 bụi tre trong cùng.
2. Tại biên bản xác minh ngày 10/10/2023 ông Lương Trung Đ3 xác nhận: Tôi là
hộ giáp ranh liền kề với đất của bị đơn Lô Quang C1. Quá trình sinh sống ở đây tôi
đưc chứng kiến đất của nhà ông C1, tiếp đến là đất nhà ông T rồi đến đất nhà ông
C. Trên mảnh đất nhà ông T có 01 bụi tre, ranh giới đất giữa nhà ông T và ông C
có một hàng rào tre và hàng rào tre này thuộc đất nhà ông C. Sau khi đổi đất với
ông T, gia đình ông C1 múc đất trước, khi múc ông C1 còn để lại hàng rào tre làm
ranh giới, ngoài ra không cung cấp gì thêm.
3. Tại biên bản xác minh ngày 14/7/2023 Bà Nông Thị V2 trình bày: Tôi không có
quan hệ h hàng với nguyên đơn và bị đơn. Tôi sinh ra và lớn lên tại xóm F, xã V,
thành phố C đến nay. Về nguồn gốc đất tranh chấp, có một rặng tre làm ranh giới
5
giữa hai gia đình ông C và ông C1. Ông C1 là người múc san gạt trước, hiện nay
cây cỏ mc dại, gia đình ông C múc rặng tre cách đây khoảng 02 - 03 năm. Ông
C1 xây bờ kè năm nào tôi không nắm đưc.
4. Tại biên bản xác minh ngày 10/10/2023, ông Lô Đức T4 - Trưởng xóm F, xã V,
thành phố C, tỉnh Cao Bằng: Nguồn gốc đất tranh chấp, trước Hp tác xã (HTX)
tan rã là của ông T (thuộc phía bên ngoài giáp đường 203), diện tích khoảng 100m
2
,
mặt sau giáp đất ông Lô Quang C1. Sau tan HTX ông Lô Quang C1 đổi đất với ông
T ở phía bên kia đường giáp với đất nhà ông T. Sau khi đổi đất đến năm 2019 thì
gia đình ông C1 múc đất, giữ lại bụi tre làm ranh giới đất giữa hai nhà C chướng.
Đầu năm 2020, ông C múc đất sau, sau khi múc đất ông C vẫn để đất cao hơn ông
C1. 02 kè đá do gia đình ông C1 xây.
5. Tại biên bản xác minh ngày 10/10/2023, ông Nông Quang V1 trình bày: Tôi
không có quan hệ h hàng với nguyên đơn và bị đơn, tôi làm công tác tổ trưởng từ
năm 1998 đến mấy năm nay mới nghỉ. Ranh giới đất giữa nhà ông C và ông C1 có
cái giông đồi, có dãy tre làm ranh giới, dãy tre thuộc đất nhà ông C và có bờ cao
hơn, dưới dãy tre là đất nhà ông C1, cạnh dãy tre có 01 con đường hào do ông T5
đào. Gia đình ông C1 múc đất trước, gia đình ông C múc đất sau và sau đó mới
thỏa thuận xây kè.
* Tại biên bản xem xét thẩm định, đo đạc tại chỗ ngày 14/7/2023: Thửa đất tranh
chấp số 98, tờ bản đồ số 347 – b – III, diện tích 3690 m
2
mang tên Lưu Xuân C,
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) do Ủy ban nhân dân huyện H
cấp ngày 05/7/1999 có địa chỉ: Xóm F, xã V, thành phố C. Về diện tích, kích thước
các cạnh phần đất tranh chấp sẽ do cơ quan chuyên môn đo đạc, biên tập, thể hiện
bằng sơ đồ đo vẽ và cung cấp cho Tòa án sau.
Về tứ cận tiếp giáp phần diện tích đất tranh chấp như sau:
- Phía Đông giáp đất ông Lô Quang C1
- Phía Tây giáp đất ông Lưu Xuân C
- Phía Bắc giáp đất bà Đoàn Thị Gia
- Phía Nam giáp tỉnh lộ đường 203.
Tài sản trên đất tranh chấp: 01 kè đá gạch Vồ dài 18,7m, cao 1,35m, dày
0,4m; 01 phần kè xây đá hộc, thân kè chiều dài 4,1m.
*Tại biên bản định giá tài sản ngày 22/9/2023:
1. Giá trị đất tranh chấp (223,9m
2
) trị giá: 22.837.800đ;
2. Giá trị tài sản trên phần đất tranh chấp:
- 01 bức tường xây gạch vồ trị giá: 9.516.609đ;
- 01 phần kè đá hộc trị giá: 12.846.489đ;
Tổng là: 22.636.098đ.
* Tại Công văn số 2436/UBND_TNMT ngày 26/9/2023 về việc cung cấp
thông tin đất đai để giải quyết vụ án.
1. Về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: Ủy ban nhân dân thành phố C căn
cứ quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030/QĐ-UBND ngày 29/10/2021, Kế hoạch
sử dụng đất năm 2023 thành phố C đưc UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số
6
2323/QĐ-UBND ngày 31/12/2022. Vị trí đất tranh chấp quy hoạch là đất ở tại nông
thôn (ONT) và chưa có trong kế hoạch sử dụng đất năm 2023.
2. Về hồ sơ kê khai cấp GCNQSDĐ của ông Lưu Xuân C và ông Lô Quang
C1: Thành phần hồ sơ: Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất đứng tên Lưu Xuân C,
Đoàn Thị Đ2 ký ngày 11/10/1995, có xác nhận của UBND xã V ngày 20/01/1996.
Đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất đứng tên Lưu Xuân C, Đoàn Thị Đ2 ký ngày
06/10/1997, có xác nhận của UBND xã V ngày 11/9/1998. Đơn xin đăng ký quyền
sử dụng đất đứng tên Lô Quang C1, Lê Thị D ký ngày 06/10/1997, có xác nhận của
UBND xã V ngày 11/9/1998. Nhận xét về trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ: Khi xã
H chuyển về thành phố C, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Hòa A1 bàn giao
hồ sơ cho Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh thành phố C chỉ có thành phần hồ
sơ như trên. Không có danh sách công khai, Biên bản xét duyệt của Hội đồng đăng
ký, Tờ trình về việc cấp GCNQSDĐ, giấy tờ đất đai các thửa đất kê khai đăng ký
cấp GCNQSDĐ. Đối với thành phần hồ sơ trên, UBND thành phố C chưa đủ cơ sở
trả lời việc cấp GCNQSDĐ số M675126 do UBND huyện hòa An cấp ngày
05/7/1999 cho hộ gia đình ông Lưu Xuân C; GCNQSDĐ số N933898 do UBND
huyện H cấp ngày 17/5/2002 cho Lô Q thực hiện đúng trình tự, thủ tục tại thời điểm
cấp GCNQSDĐ hay không.
3. Về Chỉnh lý biến động GCNQSDĐ: Qua kiểm tra hồ sơ dạng số và dạng
giấy tại Văn phòng Đ4 chi nhánh T9 từ năm 2010 đến thời điểm hiện tại không có
thông tin biến động tại thửa đất số 98, tờ bản đồ 347 – b – III, diện tích 3690 m
2
mang tên Lưu Xuân C và thửa đất số 60, tờ bản đồ số 347 – b – III, diện tích 1260m
2
mang tên Lô Quang C1 đều cùng địa chỉ: Xóm F, xã V, thành phố C, tỉnh Cao
Bằng.
4. Về diện tích đất giải phóng mặt bằng đường tỉnh lộ 203 - Địa phận: Xóm
N, N ..., xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng của hộ ông Lô Quang C1: Theo bản cam
kết về việc hiến đất, ủng hộ để xây dựng hạng mục công trình cải tạo đường 203
thuộc dự án "Chương trình đô thị miền núi phía bắc, thành phố C" giai đoạn I (2015
- 2016) lập ngày 19/9/2016 thì hộ gia đình ông Lô Quang C1 nhất trí hiến đất, ủng
hộ đất cho dự án là 27,3m
2
, thuộc thửa đất số 60, tờ bản đồ số 347 – b – III, không
bồi thường tiền đền bù về đất.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Nguyên đơn, đồng nguyên đơn, người có quyền li và ngha vụ liên quan bà T1
vẫn giữ nguyên quan điểm và không có ý kiến gì bổ sung thêm;
Bị đơn ông Lô Quang C1 và người có quyền li ngha vụ liên quan: Bà Lê Thị D,
ông Lô Quang T7 bà Nông Thị P (người đưc bà D1 ủy quyền) đề nghị Tòa án
căn cứ vào quy định của pháp luật xử chia đôi phần diện tích đất tranh chấp và yêu
cầu nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại tài sản tường xây gạch Vồ và một phần
kè đá theo giá của Hội đồng định giá và thanh toán tiền công san gạt, vận chuyển
đất là 550.000đ/1 m
3
x 105m
2
= 57.750.000đ.
* Người bảo vệ quyền và li ích hp pháp cho nguyên đơn bà Đinh Thị H trình bày
bản luận cứ bảo vệ quyền li cho nguyên đơn: Về nguồn gốc và quá trình quản lý,
sử dụng diện tích đất tranh chấp như nguyên đơn đã trình bày, đề nghị Tòa án căn
7
cứ vào thực tế bên bị đơn ông Lô Quang C1 năm 1989 đã tự múc đất trước và xác
định ranh giới phần đất của ông có vị trí đất thấp hơn, khi múc còn để lại toàn bộ
con đường và rặng tre của nhà ông C. Đến năm 1997 đi làm sổ mục kê và làm thủ
tục kê khai cấp GCNQSDĐ ông là người đi kê khai, diện tích kê khai là 1260m2.
Đến năm 2002 ông nhận đưc GCNQSDĐ, diện tích đưc cấp 1260m
2
nhưng ông
không có khiếu nại hay tranh chấp với ai. Việc ông căn cứ vào biên bản thỏa thuận
lại ranh giới đất ngày 28/12/2020 để tranh chấp thì đề nghị Tòa án căn cứ vào Biên
bản xác định ranh giới đất đai ngày 01/04/2022 của UBND xã V ông đã thống nhất
thỏa thuận xác định ranh giới theo GCNQSDĐ của ông C và ông C1, biên bản này
có thành phần đại diện UBND xã và hai bên đương sự có chữ ký của các thành
phần tham gia và có đóng dấu của UBND nên đề nghị Tòa án giải quyết chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đưc quyền quản lý, sử dụng phần đất tranh
chấp có diện tích 209,4m
2
nằm trong thửa đất số 98, tờ bản đồ số 347 – b – III, địa
chỉ xóm F, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng mang tên Lưu Xuân C. Nguyên đơn
chấp nhận bồi thường thiệt hại tài sản tường xây gạch vồ và một phần kè đá theo
giá của Hội đồng định giá, về công san gạt, ông C1 tự san gạt và người làm chứng
ông N2 Từ Anh xác nhận thời điểm san gạt ông chỉ san gạt phần đất của ông C1
phần đất cao hơn và rặng tre còn nguyên nên không nhất trí thanh toán công san
gạt theo yêu cầu của bị đơn.
* Người bảo vệ quyền và li ích hp pháp cho bị đơn bà Hoàng Thị L trình bày
bản luận cứ bảo vệ quyền li cho bị đơn: Về nguồn gốc và quá trình quản lý, sử
dụng diện tích đất tranh chấp là do bố đẻ của ông Lô Quang C1 để lại và một phần
tiếp giáp đường tỉnh lộ 203 là do đổi đất với ông T. Quá trình quản lý sử dụng đất
do các bên chưa xác định đưc ranh giới cụ thể nên đến ngày 28/12/2022 đã làm
biên bản thống nhất ranh giới đất đai và sau khi thống nhất ông C1 mới xây kè là
đúng với thực tế ranh giới quản lý sử dụng đất của các bên. Đối với biên bản xác
định ranh giới đất đai ngày 01/04/2022 của UBND xã V ông C1 ký vào biên bản là
do sơ xuất của ông C1. Nay đề nghị Tòa án căn cứ quy định của pháp luật chấp
nhận yêu cầu của bị đơn ông Lô Quang C1 xử chia đôi phần diện tích đất tranh
chấp và yêu cầu nguyên đơn phải bồi thường thiệt hại tài sản tường xây gạch vồ và
một phần kè đá theo giá của Hội đồng định giá và thanh toán tiền công san gạt, vận
chuyển đất là 550.000đ/1 m
3
x 105m
2
= 57.750.000đ. Trường hp nếu nguyên đơn
không thỏa thuận chia đôi thì đề nghị Tòa án hủy 01 phần GCNQSDĐ của ông Lưu
Xuân C đối với diện tích đất tranh chấp do GCNQSDĐ của ông C đưc cấp không
đúng thực tế và Hồ sơ kê khai xin cấp GCNQSDĐ chưa có đầy đủ thành phần các
giấy tờ theo quy định của pháp luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 05/2004/DS-ST ngày 24/01/2024, quyết định sửa
chữa bổ sung bản án số 01 ngày 6.2.2024, quyết định sửa chữa bổ sung số 03 ngày
02 tháng 8 năm 2024của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng đã Căn cứ khoản 9
Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 147,
điều 157, điều 165, điều 262, của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 166, Điều 176, Điều 221, Điều 223, Điều 246, Điều 503 của
Bộ luật dân sự năm 2015;
8
Căn cứ khoản 3 Điều 17, Điều 166, Điều 167, Điều 170, Điều 203 của Luật
đất đai năm 2013
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Điều 165 của Bộ luật tố tụng dân
sự quy định về ngha vụ chịu chi phí thẩm định, định giá, đo đạc tài sản.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn ông Lưu Xuân C, bà
Đoàn Thị Đ2.
Đồng nguyên đơn ông Lưu Xuân C, bà Đoàn Thị Đ2 và người có quyền li ngha
vụ liên quan chị Lưu Ngc T1 đưc quyền quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp có
diện tích 209,4m
2
nằm trong thửa đất số 98, tờ bản đồ số 347 – b – III, địa chỉ xóm
F, xã V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng mang tên Lưu Xuân C có các hướng tiếp giáp
như sau:
+ Phía Đông giáp đất ông Lô Quang C1;
+ Phía Tây giáp đất ông Lưu Xuân C;
+ Phía Bắc giáp đất bà Đoàn Thị G;
+ Phía Nam giáp đường tỉnh lộ 203.
Về kích thước, dài, rộng theo sơ đồ trích đo cung cấp đính kèm.
Công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự về xử lý tài sản trên đất tranh chấp
và trách nhiệm bồi thường thiệt hại tài sản: Đồng nguyên ông Lưu Xuân C, bà Đoàn
Thị Đ2 có trách nhiệm tháo dỡ tài sản trên đất tranh chấp: 01 kè đá gạch Vồ dài
18,7m, cao 1,35m, dày 0,4m, 01 phần kè đá hộc và thanh toán giá trị tài sản trên
phần đất tranh chấp trị giá tổng là: 22.636.098đ cho bị đơn ông Lô Quang C1 và
người có quyền li ngha vụ liên quan bà Lê Thị D.
Ngoài ra bản án còn tuyên về phần án phí, chi phí xem xét thẩm định tại chỗ,
định giá và quyền kháng cáo của các đương sự.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/02/2024 bị đơn Lô Quang C1 và người có quyền
li ngha vụ liên quan Lê Thị D, Lô Thị D1, Lô Văn T2 có đơn kháng cáo, không
nhất trí với bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị đơn Lô Quang C1, người có quyền li ngha vụ liên
quan Lê Thị D2, người đại diện theo ủy quyền của bà Lô Thị D1 bà Nông Thị
Phương trình b: giữ nguyên ý kiến như đã trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, yêu cầu
kháng cáo toàn bộ bản án và hủy 1 một phần GCNQSDĐ mà nhà nhà nước đã cấp
cho ông C.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, người có quyền li ngha vụ liên
quan Lưu Ngc T1 bà Đoàn Thị Đ2 và người bảo vệ quyền và li ích hp Đinh Thị
H giữ nguyên ý kiến như đã trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, đề nghị HĐXX giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
Người có quyền li ngha vụ liên quan Lô Văn T2 giữ nguyên nội dung trong đơn
kháng cáo đã gửi Tòa án và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm làm rõ việc Thẩm
phán cấp sơ thẩm giải quyết vụ án không khách quan, không cho ông T2 tham gia
9
hòa giải, chỉ đưc trình bày ý kiến của mình tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Nay đề
nghị hủy bản án để giải quyết lại.
Luật sư Hoàng Thị L trình bày: Về nguồn gốc đất của bị đơn do ông cha để lại từ
năm 1954, phần tranh chấp có hàng rào tre, phần đất tranh chấp do ông C1 quản lý
sử dụng, tại biên bản thỏa thuận 28.12.2020 đã thể hiện rõ ranh giới, ông C đã chặt
hàng tre, ông C1 mới xây kè. Việc cấp bìa đỏ là cấp theo dự án nên không có tứ
cận ký giáp ranh, bản án sơ thẩm tuyên ngày 24.01.2024 sau đó đến ngày 6.2.2024
sửa chữa bản án thể hiện là sai sót, những nội dung này chưa đưc thể hiện tại bản
án nên vi phạm tố tụng về phần sửa chữa bổ sung bản án, biên bản nghị án cũng
không có phần sửa chữa trong biên bản. Đối với người có quyền li ngha vụ liên
quan là anh Lô Quang T7 không đưc tham gia hòa giải chưa đảm bảo quyền li
cho anh T7 theo điều 73 BLTTDS. Do đó đề nghị hủy vụ án sơ thẩm để giải quyết
lại vụ án.
Luật sư Đinh Thị H trình bày: Nguồn gốc đất của nguyên đơn do bố mẹ để lại, phần
đất tranh chấp là của nguyên đơn, đất có sự cao thấp rõ ràng, đất ông C cao hơn
phần đất của ông C1, ông C1 đã san gạt phần đất của ông từ năm 1989. Sau khi
thỏa thuận lại ranh giới ngày 28.12.2020 ông C1 vẫn tranh lấn sang phần đất của
ông C nên ông C mới kiện ra tòa. Tại phiên tòa ông C1 giải trình phần đất tăng lên
từ 1260m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lên 1813m2 là do mua với bà
Gia, ông S...tuy nhiên tại cấp sơ thẩm ông không nêu ra và không cung cấp tài liệu,
chứng cứ để chứng minh nên không có căn cứ chấp nhận. Việc ông T7 kháng cáo
cho rằng Thẩm phán cấp sơ thẩm giải quyết không khách quan là không có căn cứ
chấp nhận, Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng phát biểu quan điểm: Việc tuân
theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, người
tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, đảm bảo đúng quy định của pháp
luật.
Về đường lối giải quyết: Bị đơn ông Lô Quang C1 và những người có quyền li
ngha vụ liên quan bà Lê Thị D, Lô Văn T2, Lô Thị D1 kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xem xét giải quyết lại toàn bộ vụ án và yêu
cầu hủy 01 phần diện tích đất tại thửa đất số 98 tờ bản đồ số 347-b-III trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lưu Xuân C đưc Ủy ban nhân dân
huyện H cấp ngày 05/7/1999 để gia đình tôi tiếp tục đưc quyền quản lý và sử dụng
đối với diện tích đất hiện nay đang tranh chấp.
Nhận thấy: Năm 1989, gia đình ông Lô Quang C1 đã múc đất trước và khi
múc đất đã tự xác định ranh giới là phần đất của ông thấp hơn phần đất của ông
Lưu Xuân C và khi múc đã để lại con đường mòn nhà bà Gia đi lại cùng rặng tre
nhà ông C, đến năm 1997 đi làm sổ mục kê và làm thủ tục kê khai cấp GCNQSDĐ
ông là người đi kê khai, diện tích kê khai là 1260m
2
. Đến năm 2002 ông nhận đưc
GCNQSDĐ nhưng ông không có khiếu nại hay tranh chấp với ai, do đó ranh giới
và diện tích đất của hai bên gia đình theo giấy chứng nhận đã đưc cấp là phù hp
với ranh giới thực tế và quá trình quản lý, sử dụng của các bên đương sự. Bị đơn
và người có quyền li ngha vụ liên quan cho rằng ông C đã kê khai vưt qua hàng
10
tre chiếm vào phần đất của gia đình ông đang quản lý, sử dụng. Sau khi có bản cam
kết vào ngày 28/12/2020 gia đình ông Lưu Xuân C mới đưc san gạt hàng tre đi và
gia đình ông C1 mới đưc san gạt phần đất còn lại sát bụi tre. Tuy nhiên biên bản
thoả thuận mốc giới ngày 28/12/2020 và biên bản xác định ranh giới đất ngày
01/04/2022 của Ủy ban nhân dân xã V, sau khi thoả thuận các bên chưa đi làm thủ
tục chỉnh lý GCNQSDĐ nên biên bản thoả thuận mốc giới giữa ông C và ông C1
ký ngày 28/12/2020, 01/04/2022 không có giá trị pháp lý, chưa phát sinh quyền,
li ích của các bên.
Bị đơn và những người liên quan cho rằng nguồn gốc đất tranh chấp là của
bố ông Lô Văn K và mẹ Đoàn Thị N1 khai phá nhưng thực tế qua điều tra xác
minh, thẩm định tại chỗ thì chỉ có 01 phần đất phía trên giáp ranh thửa đất số 98
của hộ ông Lưu Xuân C là của bố mẹ ông để lại thừa kế. Phần đất tranh chấp phía
dưới, giáp đường Quốc lộ là đất ông trực tiếp đổi đất với ông Lưu Văn T, còn việc
kê khai sổ mục kê, ông cho rằng năm 1995 Nhà nước đo đạc địa chính xác định toạ
độ cắm tay và cho rằng ông không có mặt tại địa phương và ông C đơn phương chỉ
địa chính đo phần đất gia đình chưa san gạt vào GCN của ông C. Quá trình giải
quyết vụ án ông không cung cấp đưc tài liệu về việc đã khiếu nại đến cơ quan có
thẩm quyền về kết quả đo đạc hay kê khai cấp giấy chứng nhận. Năm 2002, sau khi
nhận giấy chứng nhận ông cũng không khiếu nại hay tranh chấp đất với hộ ông C.
Ông cũng không chứng minh đưc phần diện tích tăng thêm theo bản đồ trích đo
năm 2015.
Theo Công văn số 2436/UBND-TNMT ngày 26/9/2023 của Ủy ban nhân
dân thành phố C trả lời: Về trình tự thủ tục: Có đơn xin đăng ký QSDĐ; không có
danh sách công khai, biên bản xét duyệt của hội đồng đăng ký, tờ trình về việc cấp
giấy chứng nhận QSDĐ, giấy tờ đất đai các thửa đất kê khai đăng ký cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Đối với thành phần hồ sơ trên,Ủy ban nhân dân
thành phố C chưa có đủ cơ sở tr li việc cấp giấy chng nhận quyn s dng đất
số M675126 do Ủy ban nhân dân huyện H cấp ngày 05/7/1999 cho hộ gia đình ông
Lưu Xuân C; giấy chng nhận quyn s dng đất số N933898 do UBND huyện H
cấp ngày 17/5/2002 cho hộ gia đình ông Lô Quang C1 thực hiện đúng trình tự, thủ
tc tại thi điểm cấp hay không. Quá trình đi kê khai cấp giấy chứng nhận ông C1
tự đi kê khai, diện tích kê khai là 1260m
2
, ông cũng không tranh chấp hay khiếu
nại với diện tích đất ông C đưc cấp giấy chứng nhận.Về thành phần hồ sơ đăng
ký cấp giấy chứng nhận chưa đủ các thành phần theo quy định nhưng sau khi đưc
cấp các bên đã sử dụng đất ổn định lâu dài từ năm 1999 đến năm 2020 mới xảy ra
tranh chấp.
Như đã phân tích ở trên thửa đất đang tranh chấp nằm trong thửa 98 của ông
C, ông C yêu cầu ông C1 trả lại 223,9m
2
nằm trong giấy chứng nhận của ông C.
Thửa đất 60 của ông C1 tiếp giáp với phần đất tranh chấp một mình ông C1 đứng
tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc đưa bà D, ông T2, bà D1
vào tham gia tố tụng với tư cách là người liên quan là không cần thiết trong vụ án
này.
11
Đối với yêu cầu bồi thường tiền công san gạt 550.000đ*105m
2
= 57.750.000đ
do ông C1 tự san gạt và người làm chứng Nông Từ Anh xác nhận chỉ san gạt phần
đất của ông C1 ở phần thấp hơn chưa san gạt đến đất ông C nên yêu cầu bồi thường
có ông C1 và những người liên quan là không có căn cứ để chấp thuận.
Bị đơn ông Lô Quang C1 và những người có quyền li ngha vụ liên quan
bà Lê Thị D, Lô Văn T2, Lô Thị D1 kháng cáo toàn bộ bản án của TAND thành
phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, cho rằng bản án tuyên không đúng với quy định của
pháp luật là không có cơ sở để chấp nhận.
Đề nghị HĐXX căn cứ các Điều 17, Điều 166, 167, 170, 203 Luật đất đai
năm 2013; khoản 1 Điều 308 BLTTDS năm 2015 không chấp nhận đơn kháng cáo
của Bị đơn ông Lô Quang C1 và những người có quyền li ngha vụ liên quan bà
Lê Thị D, Lô Văn T2, Lô Thị D1 giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 05/2024/DS-ST
ngày 24/01/2024 của Tòa án thành phố C, tỉnh Cao Bằng.
Yêu cầu, kiến nghị khắc phục vi phạm
Kiến nghị đối với Uỷ ban: Trong vụ án này theo Công văn trả lời số
2436/UBND-TNMT ngày 26/9/2023 của Ủy ban nhân dân thành phố C thì chưa đủ
cơ sở trả lời việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với ông Lưu Xuân C
và ông Lô Quang C1 thực hiện đúng trình tự thủ tục tại thời điểm cấp hay không
với lý do: Khi Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất Hòa A bàn giao hồ sơ cho
văn phòng Đ4 chi nhánh thành phố C thì hồ sơ kê khai cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đối với ông Lưu Xuân C và ông Lô Quang C1 chỉ có đơn xin đăng ký
quyền sử dụng đất không có danh sách công khai, biên bản xét duyệt của hội đồng
đăng ký, tờ trình về việc cấp giấy chứng nhận...như vậy hồ sơ đăng ký đất đai của
ông Lưu Xuân C chưa đầy đủ theo quy định tại Mục I phần 2 Thông tư số
346/1998/TT-TCĐC ngày 16/3/1998 của T10 hướng dẫn thủ tục đăng ký đất đai,
lập hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hồ sơ thủ tục đăng
ký đất đai của ông Lô Quang C1 chưa đầy đủ theo quy định tại Chương 3 phần I
Thông tư số 1990/2001/TT-TCĐC ngày 30/11/2001 của T10. Viện kiểm sát nhân
dân tỉnh Cao Bằng kiến nghị đối với Ủy ban nhân dân thành phố C, Ủy ban nhân
dân huyện H, tổ chức kiểm tra, rút kinh nghiệm, khắc phục những vi phạm, thiếu
sót trong công tác quản lý Nhà nước về đất đai (công tác lưu trữ hồ sơ cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất).
Kiến nghị đối với Tòa án: Rút kinh nghiệm, khắc phục vi phạm trong việc
xác định tư cách tố tụng của các đương sự; đối với ý kiến của bị đơn về việc hủy
một phần giấy chứng nhận đưc xác định không phải là yêu cầu phản tố của bị đơn.
Toà án nhận định là yêu cầu là không chính xác nó chỉ là ý kiến của bị đơn đối với
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Sau khi nghiên cu hồ sơ v thẩm tra chng c tại phiên tòa, nghe li trình bày
của các đương sự, ý kiến phát biểu của kiểm sát viên v căn c vào kết qu tranh
luận tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện và tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng
12
dân sự trong việc thụ lý, xác định thẩm quyền, quan hệ pháp luật tranh chấp, thu
thập và giao nộp chứng cứ, thẩm định, và hòa giải, trình tự và thủ tục phiên tòa sơ
thẩm...Đơn kháng cáo của bị đơn Lô Quang C1 và người có quyền li ngha vụ liên
quan Lê Thị D, Lô Văn T2, Lô Thị D1 nộp trong thời hạn luật định; ông C1, bà D
là người cao tuổi nên đưc miễn nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm; Ông T2, bà
D1 đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật, nên đưc
xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung đơn kháng cáo v các căn c kháng cáo của bị đơn Lô
Quang C1 và người có quyền li ngha vụ liên quan Lê Thị D2, Lô Văn T2, Lô Thị
D1.
Xét về nguồn gốc và quá trình quản lý sử dụng đất của nguyên đơn, là do
ông bà nội nguyên đơn để lại thừa kế, gia đình nguyên đơn đã canh tác, quản lý
thửa đất tranh chấp từ những năm 1968 đến năm 1987 thì có dựng 01 ngôi nhà cấp
04 trên đất. Đến năm 1995, nguyên đơn đi kê khai sổ mục kê thửa đất tranh chấp
số 98, tờ bản đồ số 347 - b - III diện tích 3690 m
2
, (bn đồ đo đạc 1995) nay là thửa
64 và thửa 77 tờ bản đồ số 34 (bn đồ đo đạc 2015) đến năm 1997 thì làm thủ tục
kê khai cấp GCNQSDĐ. Ngày 05/7/1999 UBND huyện H đã cấp GCNQSDĐ số
M675126, diện tích 3690m
2
cho nguyên đơn, tại đơn xin cấp giấy chứng nhận của
nguyên đơn ngày 06.10.1995 có ghi số người đồng sử dụng đất trong hộ gia đình
là 4 người (nguyên đơn khẳng định thời điểm đó có ông Lưu Xuân C, Đoàn Thị
Đ2, Lưu Ngc C3; bà Lưu Thị H2). Do đó việc cấp sơ thẩm đưa người đồng sử
dụng vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền li ngha vụ liên quan là
đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên ngày 15/11/2013 bà H2 chết không để lại
di chúc, cấp sơ thẩm không đưa những người thuộc hàng thừa kế của bà H2 vào
tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền li ngha vụ liên quan là thiếu sót,
tuy nhiên tại cấp phúc thẩm đã khắc phục đưc, các con của bà H2 gồm Lưu Thị
N3, Lưu Thị Y, Lưu Thị H3 có giấy xác nhận không yêu cầu hưởng phần di sản
của mẹ là bà H2 đối với thửa đất số 98 tờ bản đồ số 347 - b - III (bản đồ đo đạc
1995) nay là thửa 64 và thửa 77 tờ bản đồ số 34 (bản đồ đo đạc 2015) mà nhất trí
để cho con trai bà H2 là ông Lưu Xuân C quản lý sử dụng. Xét thấy việc tự nguyện
của 3 người con gái của bà H2 là đúng quy định của pháp luật, không trái đạo đức
xã hội do đó cần đưc chấp nhận. Đến năm 2020, gia đình nguyên đơn và gia đình
bị đơn có thỏa thuận lại mốc giới quyền sử dụng đất giữa 2 gia đình, đưc thể hiện
tại biên bản thỏa thuận ngày 28.12.2020, sau khi lập văn bản thỏa thuận thì bị đơn
đã xây 1 tường gạch Vồ, 1 phần kè đá để làm ranh giới ngăn cách đất giữa 2 bên,
khi đồng ý cho bị đơn xây tường gạch Vồ, 1 phần kè đá thì phía nhà nguyên đơn
đã biết là bị đơn xây vào một phần diện đất trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất của nguyên đơn, nhưng do hàng ngày bị đơn luôn chửi bới gia đình nên nguyên
đơn vẫn nhất trí để bị đơn xây, mục đích cho dứt điểm việc bị đơn chửi mắng
thường xuyên gây ảnh hưởng tâm lý đến gia đình. Tuy nhiên bị đơn vẫn tiếp tục
thường xuyên mắng chửi, tranh chấp liên tiếp vưt qua mốc giới đã thỏa thuận ngày
28/12/2020 nên gia đình nguyên đơn đã làm đơn đến UBND xã V để yêu cầu giải
quyết. Ngày 01/4/2022, UBND xã V đã xuống thực địa để giải quyết và lập biên
13
bản để hai bên thỏa thuận mời cơ quan chuyên môn đo đạc xác định ranh giới theo
ranh giới GCNQSDĐ đã đưc cấp. Ngày 7/4/2022 đơn vị đo đạc xuống xác định
mốc giới tại thực địa, sau khi đơn vị cắm mốc nguyên đơn nhận thấy bị đơn đã lấn
sang phần đất nguyên đơn là 223m2, quá trình cắm mốc bị đơn cho rằng đơn vị đo
đạc và UBND xã xác định mốc giới không đúng theo ranh giới đất đã đưc cấp
GCNQSDĐ nên bị đơn đã nhổ cột mốc, xóa vết sơn xác định ranh giới.
Xét về nguồn gốc và quá trình quản lý sử dụng đất của bị đơn đối với thửa
đất số 60, tờ bản đồ số 347 – b – III (bản đồ đo đạc năm 1995) là do ông Lô Văn K
(đã chết năm 1979) và bà Đoàn Thị N1 (đã chết 1990) là bố mẹ của bị đơn khai phá
và quản lý sử dụng. Đến năm 1989 thì bị đơn san gạt để làm nhà ở và làm vườn.
Đến năm 1997 bị đơn đi làm thủ tục kê khai cấp GCNQSDĐ, thửa đất liền kề với
đất của nguyên đơn, bị đơn là người tự kê khai, cụ thể là thửa đất số 60, tờ bản đồ
số 347 – b – III (bản đồ đo đạc năm 1995) diện tích kê khai là 1260m2, và đã đưc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số N933898 cấp ngày 05.7.1999 do UBND
huyện H cấp cho ông Lô Quang C1 nay là thửa 69, tờ bản đồ số 34 (bản đồ đo đạc
năm 2015) có diện tích là 1813m2. Quá trình giải quyết vụ án bị đơn cho rằng có
đưc để lại dải đất 223,9m2 đất giáp liền hàng tre do ông T5 (bố ông C) trồng năm
1954 nhằm chống sạt lở. Ngày 28.12.2020 nguyên đơn và bị đơn có biên bản thỏa
thuận xác định lại mốc giới, do đó bị đơn đã tiếp tục san gạt và xây kè chống lở
đất. Tuy nhiên các bên chưa đi chỉnh lý lại GCN quyền sử dụng đất với cơ quan
chuyên môn thì gia đình nguyên đơn có đơn khởi kiện ra tòa.
Hội đồng xét xử xét thấy, năm 1989 gia đình bị đơn đã múc san gạt phần đất
trước nhà và khi múc đất đã tự xác định ranh giới phần đất của bị đơn thấp hơn
phần đất của gia đình nguyên đơn, sau đó nguyên đơn mới san gạt phần đất của
mình, nhưng vẫn để lại cao hơn đất của bị đơn và đã để lại con đường mòn cho nhà
bà Gia đi lại cùng rặng tre do nguyên đơn trồng để làm ranh giới. Đến năm 1997
khi đi làm sổ mục kê và làm thủ tục kê khai cấp GCNQSDĐ bị đơn là người tự kê
khai, diện tích kê khai là 1260m2, việc bị đơn cho rằng năm 1995 Nhà nước đo đạc
địa chính xác định ta độ cắm tay và cho rằng ông không có mặt tại địa phương mà
ông C đơn phương chỉ địa chính đo phần đất của gia đình ông chưa san gạt vào
GCNQSDĐ của ông C. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông không cung
cấp đưc tài liệu về việc đã khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền về kết quả đo đạc
cũng như diện tích trong GCNQSDĐ. Năm 2002, sau khi nhận GCNQSDĐ bị đơn
cũng không khiếu nại hay tranh chấp đất với gia đình nguyên đơn. Tại GCNQSD
đất của ông đưc cấp có diện tích là 1.260 m2, nay theo đo đạc 2015 đã tăng lên
1.813m2 ông cho rằng do ông mua đất với bà Gia 2 khóm tre có diện tích 100m2,
do di dời mộ tăng là 100m2, mua với ông S 30m2 tuy nhiên tại cấp sơ thẩm ông
không trình bày, không đưa ra chứng cứ để xem xét. Tại phiên tòa phúc thẩm ông
đưa ra lý do đất tăng thêm diện tích từ 1.260m lên 1.813m2 và kèm theo giấy xác
nhận của bà Gia, ông S...giấy xác nhận không có thời gian, không khẳng định phần
đất này đưc nằm trong thửa số 69 tờ bản đồ số 34 (đo đạc năm 2015) ngoài ra
ông không có thêm tài liệu chứng cứ nào khác để chứng minh đưc phần diện tích
tăng thêm theo bản đồ trích đo năm 2015. Xét thấy, việc bị đơn không khiếu nại
14
theo trình tự thủ tục pháp luật quy định và không chứng minh đưc diện tích tăng
thêm cũng như biên bản thỏa thuận ranh giới chưa có giá trị pháp lý nên yêu cầu
của bị đơn đưc quyền sử dụng phần diện tích đất 223,9m (diện tích qua đo đạc
thực tế theo biên bản thẩm định là 209,4m) là không có căn cứ chấp nhận.
Như vậy, ranh giới và diện tích đất của hai bên gia đình (GCNQSDĐ số
M675126, thửa đất số 98, tờ bản đồ số 347 - b - III (đo đạc năm 1995) diện tích
3690 m
2
nay là thửa số 64, và thửa 77 tờ bản đồ số 34 ( đo đạc năm 2015) mang
tên ông Lưu Xuân C và thửa đất số 60, tờ bản đồ số 347 – b – III (đo đạc năm 1995)
nay là thửa 69 tờ bản đồ số 34 (đo đạc năm 2015) GCNQSDĐ số N933898 hộ ông
Lô Q là có căn cứ, phù hp với ranh giới thực tế và quá trình quản lý sử dụng của
các bên đương sự, nên yêu cầu của nguyên đơn đưc sử dụng phần đất tranh chấp
có diện tích 223,9m
2
(theo sơ đồ trích đo địa chính ngày 14/7/2023, diện tích đất
tranh chấp thực tế là 209,4m2) nằm trong thửa đất số 98, tờ bản đồ số 347 – b – III,
nay là thửa số 64, và thửa 77 tờ bản đồ số 34 (đo đạc năm 2015) địa chỉ xóm F, xã
V, thành phố C, tỉnh Cao Bằng mang tên Lưu Xuân C là có căn cứ và cần đưc
chấp nhận.
Cũng tại biên bản xác minh ngày 10/10/2023, ông Nông Quang V1 cũng xác
định ranh giới đất giữa nhà ông C và ông C1 có cái giông đồi, có dãy tre làm ranh
giới, dãy tre thuộc đất nhà ông C và có bờ cao hơn, dưới dãy tre là đất nhà ông C1,
cạnh dãy tre có 01 con đường hào do ông T5 đào. Gia đình ông C1 múc đất trước,
gia đình ông C múc đất sau và sau đó mới thỏa thuận xây kè.
Tại biên bản xác ngày 25/11/2023 bà Đoàn Thị G khẳng định phần đất con
đường đi lại của gia đình bà Gia, trước đây là của ông Lưu Chân T5 (bố đẻ ông C)
ngoài ra tại các giấy xác nhận xác bà Gia cũng khẳng định bà không kê khai vào
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà, bà cũng không có ý kiến gì đối với
phần đất con đường nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của nguyên
đơn. Qua thẩm định tại chỗ, khi lên bản đồ đo đạc địa chính thì có xác định đưc
lấn vào đất của bà Gia 5,6m2 nhưng tại giấy xác nhận không có ngày tháng năm
do Tòa án nhận qua đường công văn bà Gia nhất trí để lại cho ông C quản lý sử
dụng do đó cần đưc chấp nhận.
HĐXX xét thấy, tại đoạn 2 khoản 2 Điều 176 của Bộ luật dân sự quy định
về Mốc giới ngăn cách các bất động sản " ...; nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề
không đồng ý mà có lý do chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào,
trồng cây, xây tường ngăn phải dỡ bỏ". Biên bản thỏa thuận mốc giới ngày
28/12/2020, các bên cũng chưa đi làm thủ tục chỉnh lý GCNQSDĐ nên biên bản
thỏa thuận mốc giới giữa ông C và ông C1 ký ngày 28/12/2020, không có giá trị
pháp lý, chưa phát sinh quyền, li ích của các bên liên quan.
Đối với ý kiến của ông C1 đề nghị hủy một phần GCNQSDĐ đã cấp cho ông
Lưu Xuân C với lý do ông C tự đi kê khai phần đất tranh chấp vào sổ mục kê và tự
chỉ ranh giới đất tranh chấp là xâm phạm phần đất của gia đình ông C1. Hồ sơ kê
khai cấp GCNQSDĐ thiếu các thành phần theo quy định, UBND thành phố C trả
lời "chưa đủ cơ sở tr li việc cấp GCNQSDĐ số M675126 do UBND huyện hòa
An cấp ngày 05/7/1999 cho hộ gia đình ông Lưu Xuân C; GCNQSDĐ số N933898
15
do UBND huyện H cấp ngày 17/5/2002 cho Lô Q thực hiện đúng trình tự, thủ tc
tại thi điểm cấp GCNQSDĐ hay không". Như đã phân tích ở trên, quá trình đi kê
khai cấp GCNQSDĐ ông C1 tự đi kê khai, diện tích kê khai là 1260m
2
, ông cũng
không tranh chấp hay khiếu nại với diện tích đất ông C đưc cấp GCNQSDĐ. Về
thành phần hồ sơ đăng ký cấp GCNQSDĐ chưa đủ các thành phần theo Nghị định
Chính phủ hướng dẫn, đây là lỗi của cơ quan chuyên môn, sau khi đưc cấp
GCNQSDĐ các bên đã sử dụng đất ổn định lâu dài từ năm 1999 đến năm 2020 mới
tranh chấp. Do đó, ý kiến hủy một phần GCNQSDĐ của bị đơn và người có quyền
li ngha vụ liên quan phía bên bị đơn bà D, ông T2, bà D1 là không có căn cứ chấp
nhận.
Đối với phần nội dung kháng cáo của Lô Văn T2, ông cho rằng thẩm phán
giải quyết không khách quan, nên đã tuyên quyền quản lý sử dụng đất tranh chấp
cho nguyên đơn quản lý sử dụng, tuy nhiên tại phiên tòa ông không có tài liệu
chứng cứ để chứng minh cho nội dung kháng cáo này, việc ông cho rằng cấp sơ
thẩm không cho ông tham gia hòa giải, tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm ông đã đưc
trình bày ý kiến của mình về phần đất tranh chấp nên việc ông yêu cầu hủy bản án
sơ thẩm để ông đưc tham gia hòa giải vụ án là không cần thiết, bởi nếu hủy vụ án
quay về giải quyết lại cũng không làm thay đổi bản chất vụ án.
Đối với ý kiến của luật sư L cho rằng quyết định sửa chữa bổ sung bản án số
01 ngày 06/02/2024 đã vi phạm tố tụng theo quy định tại điều 268 BLTTDS, hội
đồng xét xử nhận thấy, nội dung sửa chữa chỉ thể hiện lại diện tích từng phần, các
góc cạnh đối với diện tích đất tranh chấp 209, 4m2. Tại bản án và biên bản nghị án
cũng đã thể hiện rõ nguyên đơn đưc quyền quản lý sử dụng 209,4m2. Về kích
thước, dài, rộng theo sơ đồ trích đo cung cấp đính kèm. Do đó nếu hủy vụ án để
cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án cũng không làm thay đổi bản chất vụ án, nên không
cần thiết phải hủy vụ án để giải quyết lại.
Đối với các đơn trình bày, đơn yêu cầu phản tố của bị đơn Lô Quang C1 gửi
cho cấp phúc thẩm. Hội đồng xét xử xét thấy: nội dung trình bày trong đơn mục
đích không đồng ý với việc cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, không
đồng ý với bản án sơ thẩm đã tuyên, các nội dung đó đã đưc Hội đồng xét xử xem
xét một cách khách quan, toàn diện trong vụ án.
Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại tài sản tường xây gạch vồ và một phần
kè đá theo giá của Hội đồng định giá Tổng là: 22.363.098đ, (01 bức tường xây gạch
vồ trị giá: 9.516.609đ; 01 phần kè đá hộc trị giá: 12.846.489đ) các bên đương sự
nhất trí về giá của Hội đồng định giá đưa ra. Như đã nhận định ở trên, phần đất
tranh chấp thuộc quyền quản lý sử dụng của nguyên đơn, do đó buộc bị đơn phải
tự tháo gỡ tường xây gạch vồ và một phần kè đá. Tuy nhiên nguyên đơn tự nguyện
thanh toán số tiền 22.363.098đ giá trị tài sản trên đất theo giá Hội đồng định giá
đưa ra cho bị đơn nên cần đưc ghi nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm bị đơn cho rằng
quá trình xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn không đưc thỏa thuận với nguyên
đơn số tiền bồi thường thiệt hại tài sản tường xây gạch vồ và một phần kè đá, nhưng
Hội đồng xử xét sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự về phần
bồi thường giá trị 2 kè gạch vồ và kè đá với số tiền 22.363.098đ, là chưa chính xác,
16
chưa đúng với ý chí của bị đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm các đương sự không có sự thỏa thuận thống nhất nội dung trên, cấp
sơ thẩm công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự là không đúng theo quy
định của pháp luật. Tuy nhiên như đã nhận định ở trên có căn cứ khẳng định phần
đất tranh chấp là của nguyên đơn nên theo quy định của pháp luật bị đơn phải tự
tháo gỡ để trả lại đất cho nguyên đơn, nhưng do nguyên đơn tự nguyện thanh toán
giá trị tài sản cho bị đơn, tự nguyện tháo gỡ 2 kè gạch vồ và kè đá nên cần ghi
nhận sự tự nguyện đó. Đối với nội dung này xét thấy không cần thiết phải hủy vụ
án để giải quyết lại, mà cần ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn thì mới chính
xác.
Đối với yêu cầu bồi thường tiền công san gạt: 550.000đ x105m
3
=
57.750.000đ. Do ông C1 tự san gạt và người làm chứng Nông Từ Anh xác nhận
chỉ san gạt phần đất của ông C1 ở phần thấp hơn chưa san gạt đến đất ông C nên
yêu cầu bồi thường của ông C1 là không có căn cứ và không đưc chấp nhận.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, HĐXX xét thấy bản án sơ thẩm
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lưu Xuân C là có căn cứ, đúng quy định của
pháp luật. Không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị đơn và người có quyền
li ngha vụ liên quan.
Quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát phù hp với nhận định của
Tòa án nên cần đưc chấp nhận.
Ý kiến của Luật sư Đinh Thị H bảo vệ quyền và li ích hp pháp cho nguyên
đơn là có căn cứ nên cần đưc chấp nhận. Ý kiến của Luật sư Hoàng Thị L yêu cầu
hủy vụ án để giải quyết lại là không có căn cứ chấp nhận.
[3] V chi phí thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu của nguyên đơn đưc chấp nhận
nên cấp sơ thẩm buộc bị đơn phải chịu số tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản
9.598.000đ là có căn cứ đúng theo quy định tại khoản 1 điều 157 Bộ luật tố tụng
dân sự.
[4]V án phí: Do kháng cáo của bị đơn Lô Quang C1 và người có quyền li
ngha vụ liên quan Lê Thị D, Lô Văn T2, Lô Thị D1 không đưc chấp nhận, nên
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm để sung vào công quỹ nhà nước. Tuy nhiên bị
đơn Lô Quang C1, người liên quan Lê Thị D là người cao tuổi nên đưc miễn án
phí dân sự phúc thẩm theo quy định tại điều 12 nghị quyết 326 ngày 30/12/2016;
người có quyền li ngha vụ liên quan Lô Văn T2, Lô Thị D1 phải chịu 300.000đ
tiền án phí dân sự phúc thẩm để sung công quỹ nhà nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều
12, Điều 29 nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án;
Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị đơn Lô Quang C1 và người có quyền
li ngha vụ liên quan Lê Thị D, Lô Văn T2, Lô Thị D1.
17
Tuyên xử
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của đồng nguyên đơn ông Lưu Xuân C, bà
Đoàn Thị Đ2.
Đồng nguyên đơn ông Lưu Xuân C, bà Đoàn Thị Đ2 và người có quyền li ngha
vụ liên quan chị Lưu Ngc T1 đưc quyền quản lý, sử dụng phần đất tranh chấp có
diện tích 209,4m2 nằm trong thửa đất số 98, tờ bản đồ số 347 – b – III (bản đồ đo
đạc 1995) nay là thửa 64 và thửa 77 tờ bản đồ số 34 (bản đồ đo đạc 2015) tại giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số M675126 do UBND huyện hòa A cấp ngày
05/7/1999 cho ông Lưu Xuân C, có địa chỉ xóm F, xã V, thành phố C, tỉnh Cao
Bằng.
Phần đất có hướng tiếp giáp như sau:
+ Phía Đông giáp đất ông Lô Quang C1;
+ Phía Tây giáp đất ông Lưu Xuân C;
+ Phía Bắc giáp đất bà Đoàn Thị G;
+ Phía Nam giáp đường tỉnh lộ 203.
V kích thước, dài, rộng theo sơ đồ trích đo cung cấp đính kèm.
2. Ghi nhận sự tự nguyện của nguyên đơn ông Lưu Xuân C, bà Đoàn Thị Đ2 có
trách nhiệm tự tháo dỡ tài sản trên đất tranh chấp 01 kè đá gạch Vồ dài 18,7m, cao
1,35m, dày 0,4m; 01 phần kè đá hộc và thanh toán giá trị tài sản trên phần đất tranh
chấp là 22.363.098đ cho bị đơn ông Lô Quang C1 và người có quyền li ngha vụ
liên quan bà Lê Thị D, Lô Văn T2, Lô Thị D1.
Kể từ khi Bn án có hiệu lực pháp luật, ngy nguyên đơn có đơn yêu cầu yêu
cầu thi hành án hợp lệ, nếu bị đơn chậm thanh toán sẽ phi tr lãi đối với số tin
chậm tr tương ng với thi gian chậm tr. Lãi suất chậm tr tin được xác định
theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mc lãi suất quy định tại
khon 1 Điu 468 Bộ luật Dân sự năm 2015, nếu không có thỏa thuận thì thực hiện
quy định tại khon 2 Điu 468 Bộ luật dân sự năm 2015
3. V án phí sơ thẩm: Nguyên đơn đưc chấp nhận yêu cầu nên bị đơn phải chịu
nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm số tiền 300.000đ để sung Ngân sách Nhà nước. Bị
đơn ông Lô Quang C1 là người cao tuổi, có đơn xin miễn nộp tiền án phí nên đưc
miễn tiền án phí theo quy định tại điểm điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Nguyên
đơn đưc hoàn lại số tiền 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số
0003418 ngày 06/6/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh
Cao Bằng.
4. V chi phí tố tng: Số tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản thực tế đã chi phí
là 9.598.000đ, nguyên đơn đã tạm ứng chi phí trước, nay buộc bị phải có trách
nhiệm trả lại cho nguyên đơn số tiền chi phí thẩm định, định giá tài sản là
9.598.000đ.
2. V án phí phúc thẩm: Ông Lô Quang C1, bà Lê Thị D đưc miễn án phí
dân sự phúc thẩm. Ông Lô Văn T2, bà Lô Thị D1 phải chịu 300.000đ tiền án phí
dân sự phúc thẩm để sung công quỹ nhà nước. Xác nhận ông T2 đã nộp tiền tạm
18
ứng án phí phúc thẩm theo biên lai số 0000963 ngày 19/3/2024, bà D1 đã nộp tiền
tạm ứng án phí phúc thẩm số 0000962 ngày 19/3/2024 tại chi cục thi hành án dân
sự thành phố Cao Bằng.
Trưng hợp bn án, quyết định được thi hnh theo quy định tại Điu 2 Luật
Thi hành án dân sự thì ngưi được thi hành án dân sự, ngưi phi thi hành án dân
sự có quyn tho thuận thi hành án, quyn yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoc bị cưỡng chế thi hnh án theo quy định tại các Điu 6, 7 và 9 Luật Thi
hành án dân sự; thi hiệu thi hnh án được thực hiện theo quy định tại Điu 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh;
- Cục THADS tỉnh;
- CCTHADS thành phố CB;
- Các bên đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
- Lưu Toà DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Như
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 12/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 11/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Bản án số 152/2025/DS-PT ngày 10/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 09/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm