Bản án số 39/2021/HSST ngày 18/03/2021 của TAND Q. Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội về tội mua bán trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 39/2021/HSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 39/2021/HSST
Tên Bản án: | Bản án số 39/2021/HSST ngày 18/03/2021 của TAND Q. Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội về tội mua bán trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND Q. Bắc Từ Liêm (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 39/2021/HSST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 18/03/2021 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BẮC TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 39/2021/HSST NGÀY 18/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 18/3/2021, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý: 18/2021/HSST ngày 03 tháng 02 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/HSST-QĐ ngày 25/02/2021 đối với bị cáo:
1. Họ và tên: Chu Thị B, sinh năm 2000, Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Thôn V, xã V, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Sinh viên trường ĐH V (Đã nghỉ học); Họ và tên bố: Chu Văn T, sinh năm 1966 (Chết); Họ và tên mẹ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1968; gia đình có hai chị em, bị cáo là con út.
- Tiền án, tiền sự: Không.
Danh bản và chỉ bản số: 00000295, lập ngày 17/6/2019, tại Công an quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Bị cáo bị bắt quả tang ngày 07/06/2019, hủy bỏ biện pháp tạm giữ ngày 17/6/2019. Hiện đang áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.
Có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1989; địa chỉ: Tổ dân phố số 2, phường LM, quận BTL, thành phố Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 07/06/2019, Tổ công tác Công an phường Liên Mạc, Công an quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội, tuần tra kiểm soát tại đoạn đầu lối rẽ vào cổng trường Đại học công nghiệp Hà Nội, thuộc phường Minh Khai, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, đã phát hiện Nguyễn Văn H, Chu Thị B đang có biểu hiện mua bán trái phép chất ma túy với đối tượng Nguyễn Văn C. Khi bị bắt giữ H đang cầm 02 gói nilong màu trắng kích thước mỗi gói khoảng (4x6) cm, bên trong mỗi gói chứa thảo mộc khô màu nâu nghi là ma túy. Tại chỗ H, B thừa nhận đang giao dịch bán ma túy cần sa cho C. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tiến hành thu giữ tang vật và dẫn giải các đối tượng về trụ sở để làm việc.
Vật chứng thu giữ của:
*Nguyễn Văn H: 02 gói nilong màu trắng, kích thước mỗi gói khoảng (4x6) cm, bên trong mỗi gói chứa thảo mộc khô màu nâu; 01 điện thoại di động Iphone 5s, sử dụng sim số 0972154248; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu trắng bạc- đen, BKS 29V1- 089.02, số khung 095694; số máy 0095742.
*Chu Thị B: 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus màu hồng, sử dụng sim số 0979575703, số Imei: 355840082877663.
*Nguyễn Văn C: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen, bên trong lắp sim số 0392581685 (máy đã qua sử dụng); 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng.
Ngày 09/06/2019, cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn H và Chu Thị B nhưng không thu giữ tang, tài vật gì liên quan đến vụ án.
Ngày 08/06/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định số 474 trưng cầu phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội giám định số ma túy thu giữ của Nguyễn Văn H, Chu Thị B.
Tại bản kết luận giám định số 3767/KLGĐ- PC09 ngày 14/06/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội xác định: “Thảo mộc khô bên trong 02 gói nilông đều là Cần sa, tổng khối lượng: 8,671 gam”.
Quá trình điều tra xác định: Khoảng 15 giờ ngày 07/6/2019, Nguyễn Văn H điều khiển xe máy BKS 29V1- 09802 chở Chu Thị B từ phòng trọ tại số 76, ngõ 37 phố Bằng Liệt, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội ra cửa hàng tiện lợi “Compini” tại khu vực khu đô thị Linh Đàm, quận Hoàng Mai, TP. Hà Nội ngồi uống nước. Tại đây, H bàn bạc với B mua ma túy về để sử dụng với nhau, H sử dụng số điện thoại 0972154248 gọi vào số điện thoại 0333215902 của một người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lich) hỏi mua 01 gói ma túy cần sa với giá 300.000 đồng, người phụ nữ trên đồng ý và hẹn H đến khu vực đường Nguyễn Khoái, phường Bạch Đằng, Hai Bà Trưng, Hà Nội để giao dịch. Sau đó, H điều khiển xe máy một mình đi từ khu đô thị Linh Đàm đến ngõ 50 đường Nguyễn Khóa, phường Bạch Đằng, Hai Bà Trưng, Hà Nội gặp người phụ nữ trên và mua 01 gói cần sa được chứa trong túi nilông màu trắng kích thước khoảng (7x8) cm với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, H quay về cửa hàng tiện lợi “Compini”. Cùng lúc này, Nguyễn Văn C sử dụng tài khoản facebook “Bao Anh Nguyen” nhắn tin vào tài khoản “Sân Cà” của H hỏi mua 02 gói cần sa và yêu cầu giao ma túy tại khu vực cổng trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội, phường Minh Khai, Bắc Từ Liêm, Hà Nội. H đồng bán cho C 02 gói cần sa với giá 400.000 đồng và yêu cầu C trả thêm 100.000 đồng phí “ship”. Thỏa thuận với C xong, H kể cho B nghe về việc có người hỏi mua ma túy và nội dung thỏa thuận giữa giữa H và C. B đồng ý cùng đi bán ma túy với H. Sau đó H ra bên ngoài cửa hàng tiện lợi chia 01 túi ma túy cần sa vừa mua được thành 02 túi nilông màu trắng, kích thước mỗi túi khoảng (4x6)cm còn B vẫn ngồi trong cửa hàng tiện lợi. Chia ma túy xong, B đi ra ngoài, H đưa cho B 02 gói cần sa để B cất vào hai túi quần trước đang mặc trên người, rồi H tiếp tục điều khiển xe máy chở B đi đến khu vực cổng trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội như đã hẹn. Đến nơi, H sử dụng số điện thoại của B gọi vào số 0362581685 của C, sau đó B lấy 02 gói cần sa trong túi quần ra đưa cho H. Nhận ra C, H đi đến gần C còn B ngồi ở xe máy đợi. Khi H vẫn đang cầm 02 túi nilông ma túy trên tay phải chuẩn bị đưa cho C thì bị tổ công tác Công an phường Liên Mạc, Công an quận Bắc Từ Liêm bắt giữ cùng vật chứng như đã nêu trên.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai: H là người khởi sướng việc bán ma túy, H trực tiếp đi mua ma tuý, chia thành nhiều gói và là người rủ B đi bán ma túy cùng mình. Đối với chiếc điện thoại di động Iphone 5S, là tài sản cá nhân và H sử dụng vào việc liên lạc mua bán ma túy.
Chu Thị B khai: Do thường cùng H sử dụng cần sa nên đã ngồi tại cửa hàng tiện lợi “Compini” chờ H mua ma túy về sử dụng nhưng sau đó có người hỏi mua thì B và H cùng nhau mang bán ma tuý để kiếm lời. Đối với chiếc điện thoại Iphone 7 plus màu hồng, là tài sản cá nhân của B và sử dụng vào việc liên lạc mua bán ma túy.
Nguyễn Văn C khai mục đích mua ma túy cần sa để sử dụng nhưng chưa mua được thì bị bắt giữ; Đối với tài sản bị thu giữ gồm: số tiền 500.000 đồng C sử dụng để mua ma túy, 01 điện thoại di động Itel màu đen, lắp sim số 0392581685, C sử dụng điện thoại để liên lạc mua bán ma túy. Xét nghiệm tìm chất ma túy trong nước tiểu của Nguyễn Văn C cho kết quả âm tính (không sử dụng ma túy), vì vậy không có căn cứ để xử lý.
Đối với người bán ma túy cho H tại ngõ 50 đường Nguyễn Khoái, phường Bạch Đằng, Hai Bà Trưng, Hà Nội, quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch nên không có căn cứ để điều tra mở rộng.
Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu trắng, BKS: 29V1- 089.02 số khung 095694, số máy 0095742 thu giữ của Nguyễn Văn H, H khai là xe của Chu Thị B đưa cho H sử dụng. B khai mượn chiếc xe trên của chị gái ruột là Chu Thị Mơ (Sinh năm 1993; địa chỉ: phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) để làm phương tiện đi lại từ đầu năm 2019. Chị Mơ khai cho B mượn chiếc xe máy trên từ đầu năm 2019 để làm phương tiện đi học và không biết gì về việc B và H sử dụng chiếc xe trên làm phương tiện mua bán ma túy. Xác minh tại Phòng cảnh sát giao thông Công an thành phố Hà Nội xác định chị Chu Thị Mơ là người đứng tên đăng ký xe máy nêu trên, tra cứu xe máy không có trong dữ liệu xe vật chứng. Vì vậy, Ngày 05/08/2019, CQCSĐT- Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra quyết định xử lý vật chứng số 120 trao trả chiếc xe máy trên cho chị Chu Thị Mơ. Chị Mơ đã nhận lại xe máy và không yêu cầu bồi thường dân sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 01/11/2019, bà Nguyễn Thị T (là mẹ của bị can Chu Thị B) xuất trình các tài liệu về việc bị can Chu Thị B có dấu hiệu tâm thần. Ngày 01/11/2019, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm đã ra Quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung số 11/2019/HSST-QĐ cho Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm để tiến hành trưng cầu giám định tâm thần đối với Chu Thị B. Ngày 01/11/2019, Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định trả hồ sơ cho cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Bắc Từ Liêm để tiến hành trưng cầu giám định tâm thần đối với Chu Thị B.
Ngày 04/11/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định trưng cầu giám định số 749 trưng cầu Viện giám định pháp y tâm thần trung ương 1 để giám định tâm thần đối với Chu Thị B.
Ngày 29/11/2019, cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Bắc Từ Liêm ra Quyết định tách vụ án mua bán trái phép chất ma túy cùng bị can Chu Thị B để chờ kết quả giám định tâm thần xử lý sau.
Tại bản án số: 01/2020/HSST ngày 08/01/2020, Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, áp dụng Khoản 1 Điều 251 xử phạt Nguyễn Văn H 24 tháng tù giam.
Ngày 13/11/2020 Viện pháp y tâm thần trung ương có Kết luận giám định sức khỏe tâm thần sau điều trị BBCB số 436 kết luận:“Trước,trong khi thực hiện hành vi phạm tội bị can Chu Thị B có Hội chứng nghiện chất có cần sa/ Rối loạn hỗn hợp lo âu trầm cảm. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F12.2/F41.2. Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Tại thời điểm giám định bị can Chu Thị B không có bệnh tâm thần. Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.” Ngày 16/12/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Bắc Từ Liêm đã ra Quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự và Quyết định phục hồi điều tra bị can đối với Chu Thị B về tội Mua bán trái phép chất ma túy Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 27/01/2021 Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm quyết định truy tố bị cáo Chu Thị B về tội:“Mua bán trái phép chất ma túy“ theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự
Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận tội như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm luận tội:
Khẳng định bản cáo trạng truy tố Chu Thị B là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật và giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Chu Thị B về tội” “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo chu Thị B với mức án từ 24 đến 28 tháng tù.
Do bị cáo không có thu nhập nên đề nghị toà án không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án đã được xử lý tại bản án số: 01/2020/HSS ngày 08/01/2020.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng hình sự : Các quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an quận Bắc Từ Liêm, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền , trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Những căn cứ xác định tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo Chu Thị B tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại Cơ quan điều tra, vật chứng được thu giữ, biên bản phạm tội quả tang, bản kết luận giám định, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cùng các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 07/06/2019, tại đoạn lối rẽ vào cổng phụ trường Đại học Công Nghiệp Hà Nội, thuộc phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội, Nguyễn Văn H, Chu Thị B có hành vi bán trái phép 02 gói ma túy cần sa khối lượng 8,671 gam cho Nguyễn Văn C thì bị tổ công tác công an phường Liên Mạc bắt quả tang cùng vật chứng.
Hành vi của bị cáo Chu Thị B đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Như vậy, bản cáo trạng số: 16/CT-VKS ngày 27/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội truy tố bị cáo Chu Thị B là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tới chính sách quản lý, kiểm soát ma túy, chính sách phòng ngừa, ngăn chặn tệ nạn ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Ma tuý là hiểm hoạ đối với con người, không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, ma tuý còn làm tha hoá đạo đức, huỷ hoại sức khoẻ, nòi giống của người sử dụng nó, là nguyên nhân của nhiều căn bệnh nguy hiểm và là nguyên nhân gây ra các loại tội phạm nguy hiểm khác. Bị cáo biết rõ Cần sa là loại ma tuý bị Nhà nước cấm, nhưng do bị cáo đã từng sử dụng với Nguyễn Văn H nhiều lần, nên khi bị H rủ rê lôi kéo đi bán, bị cáo đã đồng ý, thực hiện. Như vậy, Chu Thị B đồng phạm với Nguyễn Văn H trong việc phạm tội mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng với vai trò giúp sức. Cần áp dụng mức hình phạt đủ sức răn đe, phòng ngừa cũng như giúp bị cáo nhận thức rõ về hành vi sai trái của mình, yên tâm cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ:
Trong vụ án này bị cáo chu Thị B bị Nguyễn Văn H rủ rê, lôi kéo cùng sử dụng và mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng với vai trò giúp sức, thứ yếu như đã phân tích. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi vi phạm pháp luật. Bị cáo có ông nội là Liệt sỹ; bản thân bị cáo có tiền sử bệnh tâm thần. Tuy bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi mua bán trái phép chất ma túy, nhưng phần nào khả năng nhận thức và hành vi của bị cáo cũng có ảnh hưởng do bệnh tâm thần gây ra.Vì vậy, bị cáo Chu Thị B được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4]. Về hình phạt:
Đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ nêu trên, Hội đồng xét xử thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo giúp sức giản đơn, vai trò thứ yếu cho bị cáo Nguyễn Văn H; mức hình phạt mà Chu Thị B phải chịu thấp hơn mức án của Nguyễn Văn H là đánh giá đúng về bản chất vụ án. Do đó, cần áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Chu Thị B dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và thấp hơn mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là thoả đáng.
Do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5]. Về xử lý vật chứng: Theo bản án số 01/2020/HSST ngày 08/01/2020 của Toà án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, vật chứng đã xử lý, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Tuyên bố bị cáo Chu Thị B phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”.
1. Áp dụng Khoản 1 Điều 251; Điều 38; Điểm s, Khoản 1,2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.
- Xử phạt bị cáo Chu Thị B: 20 (Hai mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07/6/2019 đến ngày 17/6/2019.
2. Về vật chứng: Không.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Chu Thị B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Án xử sơ thẩm công khai bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!