Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 02/02/2024 của TAND huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương về tội mua bán trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 13/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 13/2024/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 02/02/2024 của TAND huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương về tội mua bán trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Giang (TAND tỉnh Hải Dương) |
Số hiệu: | 13/2024/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 02/02/2024 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Vũ Viết T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG - TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 02/02/2024 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 02 tháng 02 năm 2024 tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Bình Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 09/2024/TLST- HS ngày 22 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2024/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Vũ Viết T - Sinh năm 1988.
Nơi sinh: Xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương.
Nơi cư trú: Thôn P, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12.
Con ông Vũ Viết T1 - đã chết và bà Đỗ Thị T2 - sinh năm 1965; Gia đình có 3 anh em, bị cáo là thứ hai. Bị cáo chưa kết hôn.
Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Không. Tạm giữ: Từ ngày 16/12/2023 đến ngày 19/12/2023.
Tạm giam: Từ ngày 19/12/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ - Công an huyện B.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vũ Đình T3, sinh năm 1988 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Thôn P, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương.
- Người làm chứng: Anh Vũ Viết C, sinh năm 1990 (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vũ Viết T là người thường xuyên sử dụng ma túy. Thông qua các mối quan hệ xã hội, T biết ở xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương có người bán ma tuý nên nảy sinh ý định mua về bán kiếm lời. Khoảng 05 giờ ngày 15/12/2023, T điều khiển xe mô tô BKS 34B4 - X (mượn của anh Vũ Viết C - là em ruột T) đi từ nhà ở thôn P, xã V đến thôn N, xã H gặp và mua của người đàn ông (không xác định được nhân thân, lịch) 5 túi ma túy đá với số tiền 6.000.000đ rồi mang về nhà cất giấu tại bàn uống nước ngoài sân để bán. Khoảng 08 giờ cùng ngày, T lấy toàn bộ túy cất giấu vào trong túi áo khoác rồi điều khiển xe mô tô đến nhà Vũ Đình T3 ở thôn P, xã V, huyện B. Khi đến nơi, T3 hỏi T có ma tuý bán cho 1 ít để sử dụng rồi T3 trả tiền sau (T3 và T chưa thoả thuận về số tiền), T đồng ý rồi lấy 1 túi ma tuý san một phần sang 1 túi nilon khác bán cho T3, phần ma tuý còn lại T3 cất giấu trong người đi về nhà.
Khoảng 08 giờ ngày 16/12/2023, T3 lấy túi ma túy mua của T hôm trước cùng dụng cụ (coóng thủy tinh, ống hút, bật lửa) ra sử dụng tại nhà mình thì bị Công an huyện B kiểm tra phát hiện, thu giữ vật chứng gồm: 1 chai nhựa có nắp chai màu xanh đục lỗ gắn với cóong thủy tinh và các ống hút nhựa, 1 bật lửa gas, 1 túi nilon kích thước (1,7 x 1,5cm) bên trong có bám dính chất tinh thể màu trắng, T3 khai là túi đựng ma tuý mua của T trước đó.
Khoảng 09 giờ cùng ngày, T cất giấu 5 túi ma tuý trong túi áo khoác rồi khiển xe mô tô BKS 34B4- X đi đến nhà T3 chơi. Cùng lúc này, Công an huyện B đang tiến hành lập biên bản làm việc với T3 về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý. Công an huyện B tiến hành kiểm tra hành chính đối với T thì phát hiện trong túi áo khoác bên trái của T cất giấu 5 túi nilon màu trắng, trong đó 1 túi có kích thước (4 x 6)cm, 1 túi kích thước (1,5 x 2)cm, 1 túi kích thước (1,3 x 2)cm, 1 túi kích thước (3,5 x 3)cm bên trong các túi đều chứa chất dạng tinh thể màu trắng; 1 túi kích thước (2 x 2,5)cm bên trong chứa chất cục bột màu đỏ, T khai nhận là ma túy đá cất giấu để bán; quản lý của T xe mô tô BKS 34B4 - X.
Kết luận giám định số 19/KL-KTHS ngày 19/12/2023 của Phòng K Công an tỉnh H, kết luận: Chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong 4 túi nilon thu giữ của T gửi đến giám định có tổng khối lượng là 0,907g, là ma túy loại Methamphetamine; chất bột màu đỏ trong túi nilon thu của T gửi đến giám định có khối lượng 0,057g, là ma túy loại Methamphetamine; chất tinh thể màu trắng bám dính trong coóng thủy tinh và túi nilon thu giữ của T3 là ma túy, loại Methamphetamine, lượng mẫu bám dính rất nhỏ không xác định được khối lượng. H lại mẫu vật giám định gồm 0,835g ma tuý loại Methamphetamine cùng toàn bộ vỏ bao gói mẫu.
Methamphetamine thuộc STT 247, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.
Vật chứng của vụ án: 0,835g ma túy loại Methamphetamine cùng toàn bộ vỏ bao gói mẫu là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 1 chai nhựa gắn ống hút và coóng thủy tinh, 1 bật lửa gas, hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện B để xử lý trong giai đoạn xét xử và thi hành án. Đối với xe mô tô BKS 34B4 - X, ngày 25/12/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại anh Vũ Viết C.
Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 19 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Vũ Viết T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Viết T thừa nhận hành vi bị cáo thực hiện như Cáo trạng đã nêu, nhất trí với Kết luận giám định và công nhận việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự là đúng.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử tại phiên tòa trình bày quan điểm giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố. Trên cơ sở phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, hậu quả, điều kiện, nguyên nhân phạm tội, nhân thân của bị cáo. Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:
- Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Vũ Viết T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
- Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Viết T từ 36 tháng đến 39 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16/12/2023.
- Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền số tiền 5.000.000đ đối với bị cáo T sung quỹ nhà nước.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu, tiêu hủy 0,835g ma túy loại Methamphetamine cùng toàn bộ vỏ bao gói mẫu là mẫu vật hoàn lại sau giám định; 1 chai nhựa gắn ống hút và coóng thủy tinh, 1 bật lửa gas.
- Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Viết T phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B; Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang; Điều tra viên; Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố; điều tra viên, kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi của bị cáo Vũ Viết T:
Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra; biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra công khai tại phiên tòa. Từ những chứng cứ nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 08 giờ ngày 15/12/2023, tại thôn P, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương, Vũ Viết T có hành vi bán trái phép 1 túi ma túy loại Methamphetamine cho Vũ Đình T3. Đến sáng ngày 16/12/2023, T3 sử dụng hết số ma tuý mua của T thì bị Công an huyện B phát hiện, bắt quả tang. Ngoài ra, T còn cất giấu trái phép trên người 0,964g ma túy loại Methamphetamine trong người với mục đích để bán kiếm lời thì bị Công an huyện B phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ tác hại của chất ma túy đối với xã hội và hành vi cất giấu trái phép chất ma túy nhằm mục đích bán lại cho người khác để kiếm lời là vi phạm pháp luật và gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Quá trình điều tra xác định, bị cáo đã bán ma túy cho Vũ Đình T3 và còn cất giấu trái phép trên người 0,964g ma túy loại Methamphetamine mục đích để bán do vậy hành vi của bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội là “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi đã thực hiện nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo T phạm tội nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được tác hại của chất ma túy nhưng vẫn bán trái phép cho người khác với mục đích để kiếm lời thể hiện ý thức coi thường pháp luật do vậy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn mới đảm bảo tác dụng giáo dục bị cáo cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với mục đích vụ lợi nên cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với tổng số 0,835g ma túy loại Methamphetamine là vật cầm lưu hành; vỏ bao gói mẫu được hoàn lại sau giám định là vật không có giá trị; 01 chai nhựa gắn ống hút và coóng thủy tinh, 1 bật lửa gas thu giữ của Vũ Đình T3 được xác định là dụng cụ sử dụng ma túy là vật cấm lưu hành và không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy đối với những vật chứng nêu trên.
Đối với xe mô tô BKS 34B4 - X, ngày 25/12/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại anh Vũ Viết C là phù hợp nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
[7] Về các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo T khai mua của người đàn ông không quen biết tại xã H, hyện B, quá trình điều tra không xác định được là ai, ở đâu; anh Vũ Viết C cho bị cáo mượn xe mô tô nhưng không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên không có căn cứ xử lý.
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Vũ Đình T3, ngày 16/01/2024, Công an huyện B ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền là phù hợp.
[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 46; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Viết T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Viết T 36 (ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 16/12/2023.
+ Về hình phạt bổ sung: Phạt tiền bị cáo Vũ Viết T số tiền 5.000.000đ sung quỹ nhà nước.
3. Về xử lý vật chứng:
+ Tịch thu, tiêu hủy 0,803g ma túy loại Methamphetamine, 04 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thứ nhất niêm phong mẫu vật gửi đến giám định được niêm phong trong 01 bì thư niêm phong số 12/KL-KTHS ký hiệu T1.
+ Tịch thu, tiêu hủy 0,032g ma túy loại Methamphetamine, 01 vỏ túi nilon màu trắng, viền khóa màu xanh được niêm phong trong 01 bì thư niêm phong số 12/KL-KTHS ký hiệu T1.
+ Tịch thu, tiêu hủy 01 vỏ túi nilon màu trắng và 01 vỏ phong bì thứ hai niêm phong mẫu vật gửi đến giám định được niêm phong trong 01 bì thư niêm phong số 12/KL-KTHS ký hiệu T2 + Tịch thu, tiêu hủy 01 chai nhựa, nắp màu xanh, trên nắp đục 02 lỗ, một lỗ cắm vào coóng thủy tinh, một lỗ cắm ống hút màu xanh, trên ống hút dính băng dính đen và 1 bật lửa gas màu xanh, trên bật lửa có cắm 01 ống nhựa, trên ống nhựa có dán băng dính màu đen.
(Đặc điểm, tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện B và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Giang ngày 30/01/2024).
4. Về án phí: Buộc bị cáo Vũ Viết T phải chịu 200.000đ án phí sơ thẩm hình sự.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!