Bản án số 30/2024/HS-PT ngày 21-02-2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về về tội mua bán trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 30/2024/HS-PT

Tên Bản án: Bản án số 30/2024/HS-PT ngày 21-02-2024 của TAND tỉnh Quảng Ngãi về về tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội danh: 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Ngãi
Số hiệu: 30/2024/HS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/02/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Nguyễn Thị Thùy D phạm tội mua bán trái phép chất ma túy
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TNH QUNG NGÃI Độc lp T do Hnh phúc
Bn án s: 30/2024/HS-PT
Ngày 21 - 02 - 2024
NHÂN DANH
C CNG HÒA XÃ HI CH NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TNH QUNG NGÃI
Thành phn Hội đồng xét x phúc thm gm có:
Thm phán Ch ta phiên tòa: Bà Lê Th M Giang.
Các thm phán: Ông Lương Văn Hùng.
Ông Lê Quang Toi.
Thư phiên tòa: Ông Nguyn Tun Phong Thư Tòa án nhân dân tnh
Qung Ngãi.
Đại din vin kim sát nhân dân tnh Qung Ngãi tham gia phiên tòa:
Nguyn Th Ngc Thúy Kim sát viên.
Trong ngày 21 tháng 02 năm 2024 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sơn
Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử công khai ván
hình sphúc thẩm thụ số: 37/2023/TLPT-HS ngày 19/12/2023 đối với bị cáo
Nguyễn Thị Thùy D do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thùy D đối với bản án
hình sự thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 10/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện
Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Thị Thùy D (Tên gọi khác: M), sinh ngày: 13/12/2001 tại
tỉnh Quảng Nam; nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã B, huyện T, tỉnh Quảng Nam; nơi tạm
trú: Số A đường B, tổ A, Phường L, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp:
Tiếp viên; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không;
quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và Phan Thị L; chồng, con: Chưa
có; tiền án, tiền sự: Không; về nhân thân: Ngày 03/02/2023, Nguyễn Thị Thùy D bị
Công an huyện N, tỉnh Quảng Ngãi ra Quyết định xử phạt hành chính số 05/QĐ-
XPHC về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình thức: Cảnh cáo; bị tạm
giữ, tạm giam từ ngày 31/01/2023 đến nay; có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 11 giờ 00 phút, ngày 31 tháng 01 năm 2023, thông qua lời giới
thiệu của một người thanh niên sử dụng tài khoản Zalo tên “Mars”, bị cáo Nguyễn
Thị Thùy D đưa cho cháu Huỳnh Phú T1 đi giao 01 hộp năm ma tuý “khay08
viên ma t “kẹo” cho một người số điện thoại 0702.350.367 tại cổng chào
huyện N thuộc xã H, huyện N, tỉnh Quảng Ngãi. Đến 11 giờ 20 phút cùng ngày, khi
đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 36B1 354.07 đi từ thành phố Q đến cổng
chào huyện N để giao ma túy, cháu T1 bị lực lượng Công an huyện N phát hiện, lập
biên bản về hành vi tàng trữ nhằm bán trái phép chất ma túy, thu giữ: 01 khẩu trang
y tế, bên trong có: 02 túi ni lông có kích thước giống nhau (3x3)cm, bên trong chứa
chất rắn màu trắng 08 viên nén màu xanh dương, không hình dạng, kích
thước giống nhau (1,1 x 1 x 0,4) cm; 01 điện thoại di động hiệu Iphone màu trắng
bạc, mặt sau hình quả táo khuyết, đã qua sử dụng; 01 xe máy biển kiểm soát
36B1 354.07.
Người thanh niên tên “Mars” người có số điện thoại 0702.350.367 tiếp
tục liên lạc với bị cáo D về việc chưa nhận được ma túy. Bị cáo D điện thoại cho
cháu T1 nhưng không liên lạc được nên lấy 01 hộp năm ma tuý “khay” 08 viên
ma tuý “kẹo” đem lên Nghĩa Hành để giao cho người người số điện thoại
0702.350.367. Khi đi đến cầu X thuộc xã N, huyện T, bị cáo D nhét số ma túy này
vào ống cống bi xi măng bên đường, liên lạc với người số điện thoại
0702.350.367 để giao ma túy nhưng không được. Sau đó, bị cáo D bị Công an
huyện N triệu tập làm việc và khai nhận toàn bộ hành vi của mình, Cơ quan điều tra
đã lập biên bản thu giữ số ma túy do bị cáo D cất giấu tại cống bi xi măng ở cầu X.
Quá trình khám xét nơi của bị cáo D tại số nhà A T, tổ A, Phường L,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N thu giữ
được các đồ vật, tài sản liên quan đến việc mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy
và số tiền 200.000 đồng.
Tại Kết luận giám định số 127/KL-KTHS ngày 07/02/2023 của Phòng K
Công an tỉnh Q kết luận:
- 08 viên nén màu xanh, không hình dạng bên trong túi niêm phong
số PS3 1907865 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu: 3,33 gram;
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong túi niêm phong số PS3
1907865 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu: 1,83 gram;
- 08 viên nén màu xanh, không rõ hình dạng bên trong túi niêm phong số
PS3 2146062 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng mẫu: 3,34 gram;
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong túi niêm phong mã số PS3
2146062 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, khối lượng mẫu: 1,84 gram.
MDMA chất ma túy nằm trong danh mục IB, STT 11, Nghị định số
57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ;
3
Ketamine chất ma túy nằm trong danh mục III, STT 40, Nghị định số
57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ.
Căn cứ khoản 3 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 của
Chính phủ thì tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng các chất ma túy so với mức tối
thiểu của từng chất quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự (3,33 +
3,34)/30 x 100%) + (1,83 + 1,84)/100 x 100% = 25,9% (dưới 100%), thuộc trường
hợp quy định tại khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Quá trình điều tra xác định: Bcáo Nguyễn Thị Thùy D cháu Huỳnh Phú
T1 có quan hệ quen biết, cùng thống nhất về việc mua bán trái phép chất ma túy. Bị
cáo D mua ma túy từ một người (không lai lịch) Thành phố Hồ Chí Minh, số
lượng 30 viên ma túy “kẹo” với giá 200.000 đồng/01 viên, bán lại cho người
mua với giá 300.000 đồng/01 viên, thu lợi 100.000 đồng/01 viên; mua 15.000.000
đồng ma túy “khay”, bị cáo phân ra thành 13 nửa hộp năm ma túy khay”, mỗi nửa
hộp năm bán với giá từ 2.000.000 đồng đến 2.500.000 đồng, thu lợi t800.000
đồng đến 1.300.000 đồng/01 nửa hộp năm ma túy “khay”. Ma túy được gửi theo
đường xe khách, tuyến Bắc - N. Sau khi nhận ma túy, bị cáo D sẽ phân chia để bán
lại cho người khác đưa ma túy cho cháu T1 đi giao, mỗi lần giao thành công, bị
cáo cho cháu T1 từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng.
Cháu T1 nhiều lần đi giao ma túy cho bị cáo D, cụ thể:
- Ngày 24/01/2023, giao 01 nửa hộp năm ma túy khay và 02 viên ma túy kẹo
với giá 3.100.000 đồng cho người mua (không lai lịch) số điện thoại
0813.468.607, không địa chỉ nơi giao ma y, thu lợi số tiền 1.700.000 đồng, bị
cáo D trả công cho cháu T1 300.000 đồng.
- Ngày 25/01/2023, giao 01 nửa hộp năm ma túy khay với giá 2.400.000
đồng cho người mua (không lai lịch) số điện thoại 0888.655.568 tại quán K1
thành phố Q, thu lợi số tiền 1.400.000 đồng, bị cáo D trả công cho cháu T1
300.000 đồng.
- Ngày 26/01/2023, bị cáo D đưa ma túy cho cháu T1 đi giao 02 lần, cụ thể:
+ Lần 1: Giao 01 nửa hộp năm ma y khay với giá là 2.300.000 đồng, cho
người mua (không lai lịch) số điện thoại 0789.697.676 tại quán K2 thành
phố Q, thu lợi số tiền 1.300.000 đồng.
+ Lần 2: Giao 01 nửa hộp năm ma túy khay 04 viên ma túy kẹo với giá là
3.700.000 đồng, cho người mua (không lai lịch) số điện thoại 0775.530.355
tại quán K2 ở thành phố Q, thu lợi số tiền 1.900.000 đồng.
Bị cáo D trả công cho cháu T1 300.000 đồng.
- Ngày 28/01/2023, bị cáo D đưa ma túy cho cháu T1 đi giao 02 lần, cụ thể:
+ Lần 1: Giao 01 chấm ma túy khay 01 viên ma túy kẹo với g
1.100.000 đồng, cho người mua (không lai lịch) số điện thoại 0786.709.921
tại quán K3 ở thành phố Q, thu lợi số tiền 400.000 đồng.
4
+ Lần 2: Giao 01 nửa hộp năm 02 chấm ma túy khay với giá 3.600.000
đồng, cho người mua nói trên, thu lợi số tiền 1.900.000 đồng.
Bị cáo D trả công cho cháu T1 300.000 đồng.
Ngoài ra, bị cáo D có 02 lần trực tiếp bán và đi giao ma túy, cụ thể:
- Ngày 06/12/2022, bán 01 nửa hộp năm ma túy khay và 06 viên ma túy kẹo
với giá 5.000.000 đồng, cho người mua tên Trần D1 (không lai lịch), số điện
thoại 0775.535.424, tại nhà trọ địa chỉ A đường B, thành phố Q, thu lợi số tiền
1.800.000 đồng.
- Ngày 10/12/2022, bán 01 nửa hộp năm ma túy khay và 02 viên ma túy kẹo
với giá 3.100.000 đồng, cho người mua (không rõ lai lịch) có số điện thoại
0365.037.732 tại bờ kè sông T, thành phố Q, thu lợi số tiền 1.700.000 đồng.
quan cảnh sát điều tra đã trưng cầu giám định dữ liệu điện ttrong điện
thoại của bị cáo D cháu T1, kết quả giám định đã trích xuất được dữ liệu để
chứng minh hành vi mua bán trái phép chất ma túy mà các đối tượng đã thực hiện.
Tại quan Cảnh sát điều tra, bcáo Nguyễn Thị Thùy D đã khai nhận toàn
bộ hành vi bán trái phép chất ma túy của mình.
Bản án hình sự sơ thẩm số 03/2023/HS-ST ngày 10/11/2023 của Tòa án nhân
dân huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thùy D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma
túy”;
Áp dụng: Điểm b, e, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều
51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thùy D 10 (Mười) năm tù, thời hạn tính từ
ngày 31/01/2023 (Ngày bắt tạm giữ, tạm giam).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án
phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 20/11/2023, bị cáo Nguyễn Thị Thùy D kháng cáo với nội dung xin
giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Thị Thùy D vẫn giữ nguyên nội dung
kháng cáo.
Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ
thẩm xét xbị cáo Nguyễn Thị Thùy D về tội Mua bán trái phép chất ma túy”
quy định tại các điểm b, e, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự căn cứ, đúng
pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội
của bị cáo, xem xét về nhân thân, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thùy D 10 năm tù phù hợp, không nặng. Đề nghị
Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình
sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thùy D, ginguyên mức
hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.
5
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Thùy D: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo
Nguyễn Thị Thùy D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội
của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét
xử đủ sở kết luận, vào trưa ngày 31/01/2023, bị cáo Nguyễn Thị Thùy D đưa
cho cháu Huỳnh Phú T1 (15 tuổi 01 tháng 02 ngày) đi giao 01 hộp năm ma túy
“khay” 08 viên ma túy “kẹo” cho một người số điện thoại 0702.350.367 tại
cổng chào huyện N, khi cháu T1 đến cổng chào để giao ma túy tbị Công an
huyện N phát hiện bắt quả tang. Do cháu T1 bbắt nên người thanh niên tên
“Mars” người số điện thoại 0702.350.367 tiếp tục liên hệ với Nguyễn Thị
Thùy D về việc chưa nhận được ma túy, D mang 01 hộp năm ma túy “khay” 08
viên ma túy kẹo” đến cầu X thuộc N, huyện T nhét số ma túy này vào ống
cống bi xi măng bên đường liên lạc với số điện thoại 0702.350.367 để giao ma
y nhưng không liên lạc được. Sau đó, quan điều tra đã mời Nguyễn Thị Thùy
D đến làm việc và D đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình. Ngoài ra, bị cáo D còn
khai nhận nhiều lần đưa ma y cho cháu T1 đi giao, cụ thể vào các ngày như:
Ngày 24, 25, 26, 28/01/2023; ngày 26 ngày 10/12/2022, bị cáo trực tiếp đi giao.
Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Thị Thùy D về tội “Mua bán trái
phép chất ma túy” quy định tại điểm b, e, p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự là có
căn cứ, đúng pháp luật. Đối với cháu Huỳnh Phú T1 khi thực hiện hành vi phạm tội
chưa đủ 16 tuổi nên không bị truy cứu trách nhiệm nh sự về tội “Mua bán trái
phép chất ma túy” với vai trò đồng phạm với bị cáo D là có căn cứ.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thùy D:
Bị cáo Nguyễn Thị Thùy D người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự,
có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo nhận thức được hành
vi mua bán trái phép chất ma túy nguy hiểm cho hội bị pháp luật cấm,
nhưng bị cáo đã thực hiện hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” nhiều lần
lợi dụng người dưới 16 tuổi đi bán trái phép chất ma túy cho nhiều người sử dụng.
Ngoài ra, khi D bị bắt vào ngày 31/01/2023, quan điều tra Công an huyện N đã
tiến hành xét nghiệm chất ma túy trong cơ thể đối với Nguyễn Thị Thùy D, kết quả
dương tính với chất ma túy trong thể nên đã ra Quyết định xử phạt hành chính
số 05/QĐ-XPHC ngày 03/2/2023 về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, hình
thức: Cảnh cáo. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm
chính sách độc quyền quản nnước về chất ma túy, m phạm trật tan toàn
hội. Tòa án cấp thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức đhành vi phạm tội
6
của bị cáo, cân nhắc về nhân thân, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình s
xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thùy D 10 năm phù hợp, không nặng. Do đó, Hội
đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị
Thùy D, giữ nguyên mức hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.
[3] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng
xét xử nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Bcáo Nguyễn Thị Thùy D phải chịu án phí hình sự phúc
thẩm.
[5] Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật ttụng hình sự;
điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sdụng án phí, lệ
phí Tòa án,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thùy D. Giữ nguyên
bản án hình sthẩm số 03/2023/HS-ST ngày 10/11/2023 của a án nhân dân
huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Áp dụng: Điểm b, e, p khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều
51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Thùy D 10 (M1) năm về tội “Mua bán trái
phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị tạm giữ, tạm
giam (31/01/2023).
2. Bị cáo Nguyễn Thị Thùy D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sphúc
thẩm.
3. Các quyết định khác ca bản án thm không kháng cáo, kháng ngh
đã có hiệu lc pháp lut, k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tnh Qung Ngãi;
- S Tư pháp tỉnh Qung Ngãi;
- VKSND, TAND huyện Nghĩa Hành;
- Công an huyện Nghĩa Hành;
- THA dân s huyện Nghĩa Hành;
- B cáo;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Lê Thị Mỹ Giang
Tải về
30-2024-HS-PT-QUANG NGAI 30-2024-HS-PT-QUANG NGAI

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

30-2024-HS-PT-QUANG NGAI 30-2024-HS-PT-QUANG NGAI

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất