Bản án số 06/2024/HS-ST ngày 26-01-2024 của TAND huyện Hương Sơn (TAND tỉnh Hà Tĩnh) về tội mua bán trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
06_2024_HS-ST_HUONG_SON_HA_TINH.pdf
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
06_2024_HS-ST_HUONG_SON_HA_TINH.doc
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 06/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 06/2024/HS-ST ngày 26-01-2024 của TAND huyện Hương Sơn (TAND tỉnh Hà Tĩnh) về tội mua bán trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Hương Sơn (TAND tỉnh Hà Tĩnh) |
| Số hiệu: | 06/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Nguyễn Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN HƯƠNG SƠN
TỈNH HÀ TĨNH
Số: 06/2024/HS-ST
Ngày 26-01-2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Mai Văn Đạt.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Khắc Hải; ông Cù Xuân Phú.
- Thư ký phiên tòa: Ông Lê Thế Hồng - Thẩm tra viên chính Tòa án nhân
dân huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh tham
gia phiên tòa: Ông Nguyễn Cảnh Hoàng - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 01 năm 2024 tại Hội trường UBND xã S, huyện H, tỉnh Hà
Tĩnh
xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hình sự
thụ lý số: 75/2023/TLST-HS ngày
26/12/2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2024/QĐXXST-HS ngày
12 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn L (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 08/8/1971, tại
xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh;
nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính:
Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết)
và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1932; có vợ là Nguyễn Thị L1, sinh năm 1974 và
02 người con, lớn nhất 29 tuổi, nhỏ nhất 22 tuổi; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt
tạm giữ ngày 08/10/2023 chuyển tạm giam từ ngày 14/10/2023, hiện đang bị
tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh H; có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Anh Thái Anh T1, sinh năm 1994; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa
chỉ: Thôn B, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Thế M, sinh năm 1960; nghề nghiệp: Lao động tự do; địa
chỉ: Thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
- Người chứng kiến: Anh Nguyễn Ngọc H, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn
L, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Bằng các biện pháp nghiệp vụ, Công an huyện H xác định Nguyễn Văn L,
sinh năm 1971, trú tại thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh có liên quan đến
hành vi mua bán trái phép chất ma túy, nên ngày 08/10/2023, Công an huyện H

2
lập tổ công tác, tiến hành theo dõi, giám sát đối tượng. Đến 19 giờ 50 phút cùng
ngày, tổ công tác phát hiện L đi bộ vào vườn nhà ông Nguyễn Thế M, sinh năm
1960, địa chỉ tại thôn H, xã S, huyện H rồi ngồi xuống dùng tay bới lá tại một
gốc cây bưởi trong vườn. Khi L đi ra giữa vườn nhà ông Nguyễn Thế M thì tổ
công tác tiến hành kiểm tra, qua sơ vấn ban đầu Nguyễn Văn L khai nhận đến
lấy ma túy đã cất giấu trước đó ở gốc cây bưởi trong vườn nhà ông M để cất
giấu chổ khác nhằm thuận lợi cho việc bán cho người khác, nhưng do sợ bị phát
hiện nên chưa kịp lấy. Lực lượng chức năng yêu cầu Nguyễn Văn L đi lại cây
bưởi nêu trên rồi dùng tay vạch lá cây ở gốc ra thì phát hiện 01 lọ thủy tinh màu
nâu kích thước chiều cao khoảng 06cm, đường kính lọ thủy tinh khoảng 03cm,
bên trong có 35 viên nén màu hồng. Nguyễn Văn L khai nhận 35 viên nén màu
hồng là ma túy, loại Hồng phiến của L mua về cất giấu để bán lại cho người
khác nhằm mục đích kiếm lời. Kiểm tra trên người của L phát hiện một số đồ
vật gồm: Trong túi quần phía sau bên trái có một chiếc ví màu nâu, bên trong có
số tiền 200.000đ, trong túi quần bên trái có một chiếc điện thoại di động nhãn
hiệu Nokia 105, màu đen, bên trong có gắn thể sim số 0393.642.011. Xét thấy
hành vi của Nguyễn Văn L là vi phạm pháp luật nên tổ công tác đưa L về trụ sở
UBND xã S biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật
chứng.
Theo kết quả giám định số 929/KL-KTHS ngày 13/10/2023 của Phòng K
Công an tỉnh H kết luận: 35 viên nén màu hồng gửi giám định là ma túy, loại
Methamphetamine, có khối lượng 3,4936gam. Methamphetamine là chất ma túy
nằm trong Danh mục II.C, STT 247, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính
phủ.
Quá trình điều tra xác định: Để có tiền tiêu xài cá nhân, Nguyễn Văn L nảy
sinh ý định mua ma túy về bán lại cho người khác hưởng tiền lời. Để thực hiện ý
định của mình, khoảng đầu tháng 8 năm 2023 (L không nhớ rõ ngày), L đón xe
buýt từ Quốc lộ H xuống khu vực vòng xuyến thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh
gặp một người đàn ông làm nghề xe ôm, quá trình trao đổi L biết người này có
thể mua được ma túy, loại H1 phiến nên L nhờ mua 3.000.000đ, người đàn ông
đồng ý và đi về hướng Bệnh viện huyện Đ. Khoảng 10 phút sau, người đàn ông
quay lại đưa cho L 01 lọ thủy tinh bên trong có 38 viên hồng phiến, L trả tiền rồi
đi về. Để cất giấu ma túy, L để lọ thủy tinh dưới gốc cây bưởi trong vườn ông
Nguyễn Thế M ở cùng thôn phủ lá phía trên, chờ khi có người mua sẽ bán lại
kiếm lời. Sáng ngày 08/10/2023, Thái Anh T1, sinh năm 1994, trú tại thôn B, xã
S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh hỏi mua 300.000đ tiền Hồng phiến, L đến vườn nhà
ông M lấy 03 viên H1 phiến từ lọ thủy tinh cho vào ống hút dài khoảng 02cm,
dán kín hai đầu bỏ trong vỏ bao thuốc lá đưa đến vị trí bánh trước máy cày đang
đổ bên đường cạnh nhà văn hóa thôn H, rồi liên hệ cho T1 đến lấy (Sau khi mua
được ma túy, T1 đưa về sử dụng hết). Số ma túy còn lại L cất giấu vào chổ cũ,
khoảng 19 giờ 50 phút, ngày 08/10/2023, L đến khu vực cất giấu ma túy để đưa
đi cất giấu chổ khác nhằm tiện cho việc mua bán thì bị lực lượng Công an phát
hiện, bắt giữ.
- Vật chứng thu giữ:

3
+ 3,4963 gam Methamphetmine, sau khi lấy mẫu giám định còn 2,978gam
được cho vào 01 túi ni long trong suốt, cùng toàn bộ vỏ bao gói được cho vào 01
phong bì thư gián kín, trên mép gián có chữ ký của các thành phần tham gia
niêm phong và Nguyễn Văn L;
+ 01 lọ thủy tinh màu nâu, cao 06cm, đường kính chổ rộng nhất 03cm;
+ 200.000đ tiền Ngân hàng N;
+ 01 chiếc ví màu nâu, đã cũ;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, bên trogn gắn thẻ
sim số 0393.642.011.
Toàn bộ vật chứng trên đã chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện H
chờ xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại Cáo trạng số 05/CT-VKS-HK ngày 26/12/2023 của Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo đã khai nhận về hành vi của mình như nội dung trên. Bị cáo không
kêu oan, bị cáo thể hiện sự ăn năn, hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn
Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng
khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị
cáo Nguyễn Văn L từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù, đồng thời đề nghị xử
lý vật chứng theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên,
Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực
hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham
gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của
Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết
định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực
hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn L đã khai nhận hành vi phạm tội của
mình. Đối chiếu lời khai nhận của bị cáo với lời khai của người tham gia tố tụng
khác và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là phù hợp. Hội
đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 08 giờ 15 phút, ngày 08/10/2023,
tại khu vực gần nhà văn hóa thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh, Nguyễn Văn
L đã có hành vi bán 03 viên H1 phiến cho Thái Anh T1 với giá 300.000đ, sau đó
T1 đã sử dụng hết số H1 phiến. Ngoài ra, vào hồi 19 giờ 50 phút, ngày
08/10/2023 Nguyễn Văn L còn bị lực lượng lượng chức năng phát hiện và bắt
giữ về hành vi tàng trữ 3,4936 gam Methamphetamine (loại Hồng phiến) nhằm
mục đích để bán lại cho người khác để kiếm lời. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố
cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ

4
luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện
H, tỉnh Hà Tĩnh truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm
phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm
phạm trật tự an toàn xã hội và ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống. Do đó
cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội thì bị cáo đã thành
khẩn khai báo; bị cáo có anh trai Nguyễn Văn C là Liệt sỹ, nên bị cáo được
hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản
2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Với hành vi phạm tội và tình giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như trên Hội
đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo
dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời phòng ngừa tội phạm
chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật
Hình sự thì ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng một số hình phạt
bổ sung. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo Nguyễn Văn L, không có nghề nghiệp ổn
định, do đó cần miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo để bị cáo yên tâm cải
tạo là phù hợp và có căn cứ.
[6] Về xử lý vật chứng: Số Methamphetamine là vật cấm lưu hành, còn
toàn bộ vỏ, bao gói, lọ thủy tinh (dùng để đựng ma túy), 01 chiếc ví cũ (dùng để
dựng tiền bán ma túy) là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy
theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2
Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với chiếc điện thoại di động N1 105 là
phương tiện bị cáo dùng để liên lạc khi bán ma túy, còn số tiền 200.000đ là do bị
cáo phạm tội mà có nên cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và
điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu, sung vào ngân
sách Nhà nước chiếc điện thoại và số tiền (còn chiếc thẻ sim gắn trong chiếc
điện thoại không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy).
Trong quá thực hiện hành vi phạm tội bị cáo thu lợi bất chính số tiền
300.000đ từ việc bán ma túy cho Thái Anh T1, nhưng quá trình điều tra mới thu
giữ ở bị cáo số tiền 200.000đ, do vậy cần áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47; điểm
b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Hình sự tuy thu ở bị cáo số tiền 100.000đ.
[7] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về điều luật áp dụng;
tội danh truy tố; mức hình phạt; xử lý vật chứng là có căn cứ nên được Hội đồng
xét xử chấp nhận.
[8] Về các nội dung khác:
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Nguyễn Văn L, do L không biết tên,
địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.
Nguyễn Văn L đã cất giấu số ma túy ở vườn nhà ông Nguyễn Thế M,
nhưng ông M hoàn toàn không biết, nên ông M không liên quan đến hành vi
phạm tội của L.

5
Hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Thái Anh T1 không cấu thành
tội, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển cho cơ quan có thẩm quyền để xử
lý vi phạm hành chính là hoàn toàn đúng theo quy định của pháp luật.
[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của
pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38;
khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều
331 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị
quyết 326/2016/UBTVQH của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa
án.
Tuyên xử:
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Mua bán trái
phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 42 tháng tù. Thời hạn tù
tính từ ngày 08/10/2023.
3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu, tiêu hủy 01 phong bì thư màu trắng có dòng chữ “CÔNG AN
HÀ TĨNH, PHÒNG KỶ THUẬT HÌNH SỰ”, được dán kín, mép dán có chữ ký
của các thành phần gia niêm phong và bị cáo Nguyễn Văn L, bên trong có
2,9780gam Methamphetamine đựng trong 01 túi ni lông trong suốt cùng toàn bộ
vỏ, bao gói; 01 lọ thủy tinh màu nâu chiều cao khoảng 06cm, đường kính chổ
rộng nhất khoảng 03cm; 01 chiếc ví màu nâu đã cũ.
- Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước số tiền 200.000đ và 01 chiếc điện
thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 (tịch thu, tiêu hủy thẻ sim số 0393.642.011
gắn trong điện thoại)
(Tình trạng, đặc điểm theo biên bản giao nhân vật chứng ngày 27/12/2023
giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H, tỉnh Hà Tĩnh và Chi cục Thi
hành án dân sự huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; còn số tiền theo Giấy ủy nhiệm chi số 11
ngày 28/12/2023).
- Truy thu, sung công Nhà nước số tiền 100.000đ ở bị cáo Nguyễn Văn L.
4. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án
hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- Bị cáo;
- Người có quyền lợi, nghĩa vu liên quan;
- VKSND huyện Hương Sơn;
- CA huyện Hương Sơn;
- THADS huyện Hương Sơn;
- THA hình sự;
- Sở tư pháp tỉnh Hà Tĩnh;
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
6
- VKSND tỉnh Hà Tĩnh;
- Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh;
- TAND tỉnh Hà Tĩnh;
- Lưu: HSVA; VPTA.
Mai Văn Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Bản án số 04/2024/HS-ST ngày 23-01-2024 của TAND tỉnh Hà Nam về về tội mua bán trái phép chất ma túy
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm