Bản án số 41/2024/HS-ST ngày 23/01/2024 của TAND huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu về tội mua bán trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 41/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 41/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 41/2024/HS-ST ngày 23/01/2024 của TAND huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu về tội mua bán trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Mường Tè (TAND tỉnh Lai Châu) |
| Số hiệu: | 41/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 23/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | ... |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TAND HUYỆN MƯỜNG TÈ
TỈNH LAI CHÂU
Bản án số: 41/2024/HS-ST
Ngày: 23-01-2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do- Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Ông Đới Xuân Huy
Các Hội thẩm nhân dân:
- Ông Quách Văn Thành
- Bà Lý Thị The
- Thư ký phiên tòa: Bà Dương Thuỳ Linh - Thư ký Tòa án nhân dân
huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu
tham gia phiên tòa: Bà Lò Thị Kẻo - Kiểm sát viên.
Trong ngày 23 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện
Mường Tè tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý
số 45/2024/TLST-HS ngày 08 tháng 01 năm 2024. Theo Quyết định đưa vụ án
ra xét xử số 41/2024/QĐXXST- HS ngày 11/01/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Sùng Thị S - Sinh năm 19xx.
Nơi cư trú: bản N, xã C, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp:
Lao động tự do; Trình độ học vấn: Không biết chữ; Dân tộc: Mông; Giới tính:
Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Sùng A D - sinh năm 19xx
và bà Giàng Thị P - sinh năm 19xx; Bị cáo có chồng là Mùa Chứ T - sinh năm
19xx và chưa có con; Gia đình bị cáo có 06 anh em, bị cáo là con thứ 02 trong gia
đình; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/9/2023 cho đến nay (Có mặt).
- Người làm chứng: Ông Thào A C - sinh năm 19xx.
Địa chỉ: Bản N, xã T, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. (Vắng mặt)
2
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Xuân Oánh là Luật sư ký hợp
đồng thực hiện trợ giúp pháp lý với Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh
Lai Châu (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Vào buổi sáng ngày 12/09/2023, tại lán nương của S thuộc khu vực bằn
Bản N, xã T, huyện Mường Tè, Sùng Thị S, sinh năm: 1988, trú tại bản N, xã C
đã mua được của một người đàn ông lạ mặt 03 gói Heroine với giá 200.000
đồng để bán kiếm lời. Mua được Heroine, S cho toàn bộ số Heroine này vào
trong 01 lọ nhựa màu trắng, có nắp đậy, rồi cất giấu vào trong túi vải màu đen
mà S đang đeo trên người, không cho ai biết. Đến buổi chiều cùng ngày, khi S
đang một mình ở lán nương thì có Thào A C, sinh năm: 1983, trú tại Bản N, xã
T, huyện Mường Tè đến hỏi mua Heroine để sử dụng. Sau khi trao đổi, thoả
thuận, S đã đồng ý bán cho C 01 gói Heroine, bên ngoài được gói bằng mảnh
nilon màu hồng với giá 100.000 đồng. Số Heroine còn lại S cất lại chỗ cũ. Sau
khi mua được Heroine từ S, C đã tự ý sử dụng ngay tại lán nương của S.
Đến hồi 17 giờ 30 phút cùng ngày 12/9/2023, tại lán nương của S, khi C
vừa sử dụng hết số Heroine nêu trên thì bị tổ công tác Công an xã Can Hồ,
huyện Mường Tè phát hiện, thu giữ 01 bơm kim tiêm của C đã dùng để sử dụng
Heroine. Tại đây, C khai nhận số Heroine C vừa sử dụng hết là của C mua được
của S. Qua đấu tranh tại chỗ, S đã đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của
mình, đồng thời giao nộp cho tổ công tác 02 gói Heroine và 01 tờ tiền Việt Nam
mệnh giá 100.000 đồng do S bán Heroine cho C mà có. Trước sự việc trên tổ
công tác đã mời người chứng kiến tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả
tang và niêm phong toàn bộ vật chứng theo quy định của pháp luật.
Tại bản kết luận giám định tư pháp số 125/KLGĐ ngày 13/9/2023 của
người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện Mường Tè, đã kết luận:
Tổng khối lượng chất bột khô, màu trắng thu giữ của Sùng Thị S có khối lượng
là 0,13 gam.
Tại bản kết luận giám định số 1013/KL-KTHS ngày 15/9/2023 của Phòng
kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 02 Mẫu chất bột màu trắng (ký
hiệu: Mẫu 01 và Mẫu 02) gửi giám định là ma túy; loại: Heroine…
Tại bản kết luận giám định số 1014/KL-KTHS ngày 15/9/2023 của Phòng
kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: 01 tờ tiền Việt Nam mệnh giá
100.000 đồng có mã số hiệu: IQ 21822073 gửi giám định là tiền thật.

3
Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKS-MT ngày 08/01/2024 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Mường Tè tỉnh Lai Châu đã truy tố Sùng Thị S về tội: “Mua bán
trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phân tích các tài
liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên nội dung bản cáo trạng
đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38; Điều 50 Bộ luật Hình sự. Khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật
Tố tụng hình sự. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Tuyên bố bị cáo Sùng Thị S
phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", xử phạt bị cáo Sùng Thị S mức án từ
02 năm 04 tháng đến 02 năm 10 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là
phạt tiền đối với bị cáo. Miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm
a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy 01 mảnh
nilon màu hồng, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 bơm kim tiêm, 01 phong bì công
văn do Công an huyện Mường Tè phát hành, 01 túi vải màu đen. Tịch thu sung
ngân sách nhà nước số tiền 100.000 đồng thu giữ của bị cáo Sùng Thị S.
Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ bào chữa nhất
trí với nội dung, quyết định truy tố. Không có ý kiến tranh luận về tội danh, điều
luật, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cũng như xử lý vật chứng, các biện pháp
tư pháp mà Kiểm sát viên đã đề nghị. Tuy nhiên người bào chữa đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh nhân
thân của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, miễn án phí Hình sự sơ thẩm
và hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng, đồng ý
với quan điểm của người bào chữa và không có ý kiến tranh luận đối với quan
điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè.
Tại lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ
hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an
huyện Mường Tè, Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, Điều tra viên, Kiểm
sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự,

4
thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa
hôm nay, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành
tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]. Về tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo:
Xét lời khai nhận của bị cáo Sùng Thị S tại phiên tòa ngày hôm nay phù
hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm
chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung
bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu đã
truy tố.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào chiều ngày 12/9/2023, tại lán
nương của Sùng Thị S thuộc khu vực bản N, xã C, huyện Mường Tè, tỉnh Lai
Châu, S đã có hành vi bán trái phép 01 gói Heroine cho Thào A C với giá
100.000 đồng để C sử dụng. Ngoài ra, vào hồi 17 giờ 30 phút cùng ngày, S còn
có hành vi tàng trữ trái phép 02 gói Heroine có tổng khối lượng 0,13 gam để bán
kiếm lời thì bị tổ công tác Công an xã Can Hồ, huyện Mường Tè phát hiện, bắt
quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.
Bị cáo Sùng Thị S có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi nêu
trên của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến C
sách quản lý đặc biệt về mua bán các chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng
xấu tới trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo biết rõ hành vi của
mình là vi phạm pháp luật nhưng vì hám lời bất chính nên vẫn cố ý thực hiện.
Hành vi mua bán, tàng trữ với mục đích để mua bán trái phép 0,13 gam Heroine
để kiếm lời đã đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy
định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Vì vậy quan điểm của vị đại diện
Viện kiểm sát, người bào chữa tại phiên tòa về tội danh, mức hình phạt và các
vấn đề khác liên quan là hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với tính chất, mức độ cũng
như hành vi phạm tội của bị cáo nên cần được chấp nhận.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo Sùng Thị S chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 BLHS. Tại cơ quan điều tra và tại
phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của
mình, bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc
biệt khó khăn, hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên Hội đồng xét xử cần áp dụng
cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản
1, khoản 2 điều 51 BLHS.

5
Do hành vi của bị cáo là nghiêm trọng nên Hội đồng xét xử xét thấy cần
phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục, cải
tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.
[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật
hình sự: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
500.000.000 triệu đồng, ... hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Căn
cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, xét thấy bị cáo
là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn,
công việc và thu nhập không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét không áp
dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5]. Về vật chứng của vụ án: 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mảnh nilon
màu trắng, 01 túi vải màu đen, 01 bơm kim tiêm là vật sử dụng vào việc phạm
tội, 01 phong bì công văn do Công an huyện Mường Tè phát hành dùng để liên
phong vật chứng đều không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu huỷ. Số tiền
100.000 đồng thu giữ của bị cáo Sùng Thị S là tiền bị cáo bán Heroine mà có
nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
[6]. Về những vấn đề khác:
Đối với người đàn ông lạ mặt mà theo lời khai đó là người đã bán Heroine
cho bị cáo: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra không xác định được người đó là
ai nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét xử lý.
Đối với Thào A C: Quá trình điều tra C đã sử dụng hết số Heroine mua
được của S nên không có căn cứ xử lý hình sự. Cơ quan CSĐT Công an huyện
Mường Tè đã xử phạt hành chính đối với C là hoàn toàn phù hợp, đúng quy định
của pháp luật.
Hành vi C sử dụng trái phép ma tuý tại lán nương của S, S không biết nên S
không phạm tội "Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý "
[7]. Về án phí: Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có
điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình là hộ cần nghèo. Nên cần
miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
38; Điều 50; Điều 46; Điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điểm a, b, c
khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ
luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1. Tuyên bố bị cáo Sùng Thị S phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
6
2. Xử phạt bị cáo Sùng Thị S 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù được tính
từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 12/9/2023. Không áp dụng hình
phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 mảnh nilon màu hồng, 01 mảnh
nilon màu trắng, 01 bơm kim tiêm, 01 phong bì công văn do Công an huyện
Mường Tè phát hành, 01 túi vải màu đen. Tịch thu sung công quỹ nhà nước số
tiền 100.000 đồng thu giữ của bị cáo Sùng Thị S.
(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an
huyện Mường Tè với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Mường Tè được lập
vào hồi 16giờ 40 phút ngày 16 tháng 01 năm 2024)
4. Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân
dân tỉnh Lai Châu trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu;
- VKSND tỉnh Lai Châu;
- VKSND huyện Mường Tè;
- Bị cáo;
- Người bào chữa;
- Chi cục Thi hành án Dân sự huyện;
- Nhà tạm giữ CA huyện Mường Tè;
- Công an huyện Mường Tè;
- Sở Tư pháp tỉnh Lai Châu;
- Lưu HS – HS./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đới Xuân Huy
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 21/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 02/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Bản án số 04/2024/HS-ST ngày 23-01-2024 của TAND tỉnh Hà Nam về về tội mua bán trái phép chất ma túy
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm