Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 25/01/2024 của TAND TP. Lai Châu, tỉnh Lai Châu về tội mua bán trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 14/2024/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 25/01/2024 của TAND TP. Lai Châu, tỉnh Lai Châu về tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội danh: 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Lai Châu (TAND tỉnh Lai Châu)
Số hiệu: 14/2024/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 25/01/2024
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Vụ án Lù Văn T phạm tội Mua bá trái phép chất ma túy theo quy định tại điềm b khoản 2 Điều 251 BLHS
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ L
TỈNH LAI CHÂU
Bản án số: 14/2024/HS-ST
Ngày 25 - 01 - 2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - chủ toạ phiên t: Bà Nguyễn Bích Nga
Các hội thẩm nhân dân: Ông Giàng A Chỉnh
Ông Lưu Quang Vinh
- Thư ký phiên toà: Bà Lê Thị Lệ Quyên Thư ký Toà án
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L tham gia phiên toà:
Thị Lệ Hằng, Kiểm sát viên.
Ngày 25/01/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L xét xử thẩm ng
khai ván hình sự thụ số: 13/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2023 theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:15/2024/XXST-HS ngày 12 tháng 01 năm
2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Văn T; Tên gọi khác: không ; sinh ngày 08/10/1977 tại tỉnh Lai
Châu; i cư trú: Bản C, xã B, huyện T, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Lao động tự do;
Trình độ học vấn: 0/12; Giới tính: Nam; dân tộc: Giáy; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo:
không; Con ông n S (đã chết năm 2008) Trần Thị E (đã chết năm 2008);
vợ Thị T, sinh năm 1975; 05 con, con lớn nhất sinh m 1998, con nhỏ
nhất sinh năm 2009; Bị cáo 04 anh em, bị cáo con thứ nhất trong gia đình; Tiền
sự: Không; Tiền án: không; Nhân thân: Bản án số 10/HSST ngày 19/12/2001 của Tòa
án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu xử phạt bị cáo T 08 tháng tù về tội
“Trộm cắp tài sản”, buộc n T phải bồi thường dân sự và chịu án phí theo quy
định. Văn T đã chấp hành xong án phạt các quyết định khác của bản án. Hiện
đã được xóa án tích; Bản án số 22/2013/HSST ngày 13/01/2013 của Tòa án nhân dân
huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xử phạt bị cáo T 30 tháng tù về tội “Hủy hoại tài
sản”, buộc Lù Văn T phải bồi thường dân sự, nộp tiền truy thu chịu án phí theo
quy định. Ngày 20/01/2015, Văn T đã chấp hành xong án phạt các quyết
định khác của bản án. Hiện đã được xoá án tích.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/8/2023 cho đến nay tại Nhà tạm giữ
Công an thành phố L (có mặt).
- Những người làm chứng:
+ Anh Vàng A C, sinh năm 1994
Địa chỉ: Bản C, xã S, thành phố L, tỉnh Lai Châu “vắng mặt”.
+ Anh Vàng Văn N, sinh năm 1995;
Địa chỉ: Bản T, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lai Châu, “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo các tài liệu trong hồ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Khoảng 09 giờ 25 phút ngày 21/8/2023, Văn T đang lán trại thuộc quyền
quản lý của mình tại bản C, xã S, thành phố L thì Vàng Văn N, sinh năm 1995, trú tại
bản T, phường Đ, thành phố L đến lán trại hỏi mua Heroine của T. Sau khi trao đổi
mua bán, T lấy một gói Heroine được gói bên ngoài bằng một mảnh nilon màu xanh
trong túi áo ngực đang mặc trên người đưa cho N rồi nhận 100.000 đồng của N cất
vào trong túi quần bên trái đang mặc trên người. Khi T vừa bán Heroine cho N xong
thì Vàng Văn C, sinh năm 1994, trú tại bản C, xã S, thành phố L đến lán trại hỏi mua
Heroine của T. Sau khi trao đổi mua bán, T tiếp tục lấy một gói Heroine được gói bên
ngoài bằng một mảnh nilon màu xanh trong túi áo ngực đang mặc trên người đưa cho
C rồi nhận 100.000 đồng của C cất vào trong túi quần bên trái đang mặc trên người,
sau đó T đi ra bờ ao lấy cỏ cho ăn còn N C vẫn trong phòng khách của lán
trại. Khi T đã đi ra ngoài thì C N đã lấy bật lửa, giấy bạc của mỗi người đem theo
rồi tự ý sử dụng Heroine tại lán trại bằng hình thức hít. Hồi 10 giờ 00 phút ngày
21/8/2023, khi N và C vừa sử dụng xong Heroine thì bị Tổ công tác Công an thành
phố L phối hợp với Công an xã S đến lán trại kiểm tra, phát hiện. Quá trình kiểm tra,
T đã tự giác giao nộp cho Tổ công tác một gói Heroine đang cất giấu trong túi áo
ngực để sdụng bán kiếm lời, 200.000 đồng do bán Heroine cho N C có.
Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T thu giữ 01 gói
chất bột màu trắng cùng đầy đủ các vật chứng có liên quan.
Theo lời khai của Lù Văn T về nguồn gốc số Heroine mà T được do tối
ngày 19/8/2023, T một mình đi bộ từ lán trại thuộc quyền quản lý của mình tại bản C,
S, thành phố L đến khu vực chợ S, xã S để tìm mua Heroine sử dụng bán kiếm
lời (lán trại của em trai T Văn Chao, sinh năm 1979, nhưng do Chao phải đi
chấp hành án nên nhờ T trông nom, quản lý hộ). Tại khu vực chợ S, T gặp một người
đàn ông không nhân thân, lai lịch, nhìn giống người nghiện ma y đã hỏi mua
Heroine với người này. Qua trao đổi mua bán, T đã mua được của người đàn ông nói
trên một gói Heroine được gói bên ngoài bằng một mảnh nilon màu xanh với giá
300.000 đồng. Mua được Heroine, T cất giấu vào trong túi áo ngực bên trái rồi đi bộ
về lán trại tại bản C, xã S. Buổi sáng ngày 20/8/2023, T lấy gói Heroine chia thành ba
phần mảnh nilon màu xanh gói bên ngoài gói Heroine thành bốn mảnh để gói
các phần Heroine. Sau đó T lấy hai mảnh nilon gói hai phần Heroine thành hai gói
nhỏ để bán trước, một phần Heroine còn lại được gói bằng hai mảnh nilon để sử dụng
bán sau (đến thời điểm bị bắt T đã hai lần sử dụng từ gói Heroine này). Toàn bộ
ba gói Heroine T cất giấu trong túi áo ngực mặc trên người.
Tại Kết luận giám định số 52/KLGĐ ngày 21/8/2023 của Người giám định
pháp theo vụ việc của Công an thành phố L Kết luận giám định số 973/KL-KTHS
ngày 24/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, kết luận: Chất bột
màu trắng thu giữ của Văn T trong quá trình bắt quả tang ngày 21/8/2023 khối
lượng là 0,06 gam. Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại Heroine.
Tại phiên tòa hôm nay:
Những người làm chứng anh ng n C, Vàng n N vắng mặt tại phiên tòa,
nhưng trong quá trình điều tra đều trình y: khoảng n 09 giờ ngày 21/8/2023 Vàng
3
Văn C đến n trại gặp T. Anh C hỏi mua Heroine với bị o T, T đồng ý. Anh C đưa
cho bị cáo T 100.000 đồng và Tn cho anh C 01 gói Heroine. Sau đó anh Vàng Văn N
đến hỏi mua Heroine với T và được T bán cho 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Sau
khi T n Heroine cho N C xong thì T đi ra ngoài, n anh C N trong phòng
khách của lán trại n T sử dụng Heroine bằngnh thức hít. Vic anh N, anh C sử dụng
Heroine tại nhà của T khi đó T không có trong nhà và hai anh cũng kng xin phép T về
việc sử dụng Heroine. Khi va sử dụng Heroine xong thì Công an đến kiểm tra, lập biên
bản đối với anh C, anh N kiểm tra test thử ma y với kết quả anh C, anh N đều
ơng tính với chất ma túy. Lù Văn T từ ngoài đi vào và t giác giao nộp 01 gói ma túy
khối lượng 0,06 gam cho Công an. Cơ quan cnht điều tra Công an thành phố L đã
xử phạt hành cnh nh chính đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của C, N.
Cáo trạng số 75/CT-VKSTP ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành
phố L, tỉnh Lai Châu đã truy tố Văn T về ti:“Mua bán trái phép chất ma túy”
theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L giữ quyền công tố tại phiên toà
giữ nguyên quan điểm truy tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lù Văn T
phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Về hình phạt chính: Áp dng điểm b khon 2 Điu 251, đim s khon 1, khoản
2 Điu 51 B lut hình s đề ngh tuyên pht b o Văn T từ 07 năm 03 tháng
đến 07 năm 09 tháng. Thi hn tù tính t ngày 21/8/2023;
Về hình phạt bổ sung: đề nghị hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung
đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự;
- Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:
+ Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều
106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị hội đồng xét xử tuyên: Tịch thu, tiêu hủy 01 bật
lửa gas bằng nhựa màu đỏ, 02 mảnh giấy màu bạc có vết cháy đen, 02 mảnh nilon màu
xanh; 01 bật lửa gas bằng nhựau xanh nhạt; 04 mảnh nilonu xanh.
+ Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự,
điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật ttụng hình sự, đề nghị hội đồng xét xử
tuyên: Tịch thu sung công quỹ nhà nước đối với stiền 200.000 đồng thu giữ của
Văn T.
- Về án phí: Đề nghịXX xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật
Tại lời nói sau cùng bị cáo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của bản thân và
đề nghị Hội đồng xét x xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Tn sở nội dung vụ án, căn cứo cáci liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh
tụng tại phn tòa, Hội đồng t xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của quan điều tra Công an thành phố L,
Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, Kiểm sát viên trong quá trình
điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử tại phiên tòa, bị cáo không ý
kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do
đó, các hành vi, quyết định tố tụng của quan tiến hành tố tụng, người tiến hành t
tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:
4
Bui sáng ngày 21/8/2023, ti lán tri thuc quyn qun ca b cáo Văn
T thuc bn C, S, thành ph L, tnh Lai Châu, Văn T đã hai lần thc hin hành
vi bán trái phép cht ma tuý. Ln th nht, T đã bán trái phép cho Vàng Văn N mt
gói Heroine với giá 100.000 đng. Ln th hai, T đã bán trái phép cho Vàng Văn C
mt gói Heroine với giá 100.000 đồng. Đến 10 gi cùng ngày, khi C N va s
dng hết s Heroine mua ca T thì b t công tác Công an thành ph L phi hp vi
Công an S, thành ph L phát hin, bt qu tang. Quá trình bắt người phm ti qu
tang đối vi T, T ng tác còn thu gi ca T 0,06 gam Heroine T đang tàng tr để
s dng và bán kiếm li.
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với biên bản bắt người phạm
tội quả tang, biên bản khám xét, phù hợp với vật chứng thu giữ, lời khai của những
người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Bị cáo n T người có đnăng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thc
được việc mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. nh vi đó là nguy hiểm
cho hội, tính chất rất nghm trọng, m phạm đến chính sách độc quyn quản lý
c chất ma tuý của Nớc, xâm phạm trật tự an toàn hội, nhưng để thỏa mãn nhu
cầu của bản thân bị cáo vẫn cố ý thực hiệnnh vi phạm tội.
Như vậy, đủ sở để khẳng định: Hành vi của bị cáo n T đủ yếu tố
cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều
251 Bộ luật hình sự. Điều luật quy định:
Điều 251. Tội Mua bán trái phép chất ma túy
1. Người nào mua bán trái phép cht ma tuý thì b pht t 02 năm đến 07
năm.
2. Phm ti thuc một trong các trường hợp sau đây thì thì b pht tù t 07 năm
đến 15 năm:
...
b) Phm ti 02 ln tr lên;
...
5. Người phm ti còn th b pht tin t 5.000.000 đồng đến 500.000.000
đồng, cấm đảm nhim chc v, cm hành ngh hoc làm công vic nhất đnh t 01
năm đến 05 năm hoc tch thu mt phn hoc toàn b tài sn.
Do vậy cáo trạng của Viện kiểmt nhân dân thành phố L, tỉnh Lai Châu đã truy
tố hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.
[3] Về nhân thân các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối
với bị cáo:
Về nhân thân: Bị cáo đã 02 lần bị Tòa án nhân dân xét xử theo các bản án: Bản
án số 10/HSST ngày 19/12/2001 của Tòa án nhân dân huyện Phong Thổ, tỉnh Lai
Châu xử phạt bị cáo T 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, buộc Văn T phải bồi
thường dân sự và chịu án phí theo quy định. Văn T đã chấp hành xong án phạt và
các quyết định khác của bản án. Hiện đã được xóa án tích; Bản án số 22/2013/HSST
ngày 13/01/2013 của Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu xử phạt bị
cáo T 30 tháng về tội “Hủy hoại tài sản”, buộc Văn T phải bồi thường dân sự,
nộp tiền truy thu chịu án phí theo quy định. Ngày 20/01/2015, Văn T đã chấp
hành xong án phạt tù và các quyết định khác của bản án. Hiện đã được xoá án tích.
Về tình tiết giảm nhẹ: Trong qtrình điều tra cũng như tại phiên tòa bị o
đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo bố
5
đẻ Văn S được Nhà nước tặng Huân chương chiến sỹ vẻ vang. Đây tình tiết
giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự mà Hội đồng
xét xử xét thấy cần thiết áp dụng đối với bị cáo.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định Điều 52 Bộ luật hình sự.
Tn sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho hội của nh vi phạm tội, nhân
thân, nh tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệmnh s, xét thấy cần thiết phải cách ly bị
o ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục và cải tạo bị o
thành ng n ích cho xã hội.
[4] Về nh phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật nh sự bị
o n th bị áp dụng nh phạt bổ sung phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm nh nghề hoặc làm công việc nhất
định từ 01 m đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhn theo
c tài liệu chứng cứ trong h vụ án lời khai của bị o tại phn a đều cho
thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không n định, không tài sản riêng giá trị
n Hội đồng t xử cần quyết định miễn hình phạt bổ sung đối với bị o.
[5] Đối với đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa căn cứ Hội đồng xét
xử thấy cần chấp nhận.
[6] Về vật chứng của vụ án:
- Đi vi 0,06 gam Heroine thu gi trong q trình bt qu tang, quan cảnh t
điu tra Công an tnh ph L đã gi toàn b giám đnh ti Phòng k thut hình s
Công an tnh Lai Châu, không hoàn li mu vt gửi giám đnh theo quy định của
pháp luật nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.
- Đối với: một phong thư thông dụng, bên trong 01 bật lửa gas bằng nhựa
màu đỏ, 01 mảnh giấy màu bạc có vết cháy đen, 01 mảnh nilon màu xanh thu giữ của
Vàng Văn Chủ; Một phong thư thông dụng, bên trong 01 bật lửa gas bằng nhựa
màu xanh nhạt, 01 mảnh giấy màu bạc có vết cháy đen, 01 mảnh nilon màu xanh thu
giữ của Vàng Văn N; Một phong công văn của Công an thành phố L bên trong
02 mảnh nilon màu xanh, Vật chứng còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định thu giữ
của Văn T trong quá trình bắt quả tang ngày 21/8/2023. Xét những vật chứng nêu
trên là công cụ phương tiện dùng vào việc phạm tội và là vật không có giá trị sử dụng
nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và
điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Đối với số tiền 200.000 đồng thu giữ của Văn T tiền T đã bán Heroine
cho C và N. Xét thấy vật chứng trên là khoản thu lợi bất chính từ việc bị cáo phạm tội
có nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định điểm b khoản 1
Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[7] Các vấn đề kc ca vụ án:
Bị cáo Lù Văn T khai nhận nguồn gốc số Heroine T bán cho Vàng Văn N, Vàng
Văn C 0,06 gam Heroine còn lại bị thu giữ mua của một người đàn ông bị cáo
gặp tại khu vực chợ S thuộc bản S, S, thành phố L, tỉnh Lai Châu vào buổi tối
ngày 19/8/2023. Tuy nhiên, do bị cáo không biết nhân thân, lai lịch của người đàn
ông này, việc mua bán không có ai chứng kiến nên Cơ quan điều tra không có căn cứ
để điều tra, làm rõ.
Đối với việc Vàng Văn CVàng Văn N đã sử dụng Heroine tại lán trại của
Văn T: Kết quả điều tra xác định C N không hỏi, không xin phép T về việc sử
6
dụng Heroine tại lán trại thuộc quyền quản của T, sau khi bán ma túy cho C N
xong thì T đi ra ngoài lấy cỏ cho ăn nên không biết việc N C sử dụng Heroine
tại địa điểm thuộc quyền quản của mình. vậy, quan CSĐT không xem xét,
xử trách nhiệm hình sự đối với Văn T về hành vi Chứa chấp sử dụng trái phép
chất ma tuý ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với C N về hành vi
sử dụng trái phép chất ma túy là phù hợp.
Đối với Văn Ch, chủ sở hữu lán trại nơi Văn T thực hiện hành vi mua
bán trái phép chất ma tuý. Quá trình điều tra xác định Văn Ch đang đi chấp hành
án và đã nhờ T trông nom, quản lý lán trại, tại thời điểm T thực hiện hành vi phạm tội
thì Ch không biết nên Ch không đồng phạm với T.
[8] Về án phí: Theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng
hình s bị o phải chịu án phình sự thẩm. Tuy nhiên xét thấy gia đình bị o
thuộc hộ nghèo theo Giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo số 214/GCN-HN,
HCN ngày 03/01/2022 của UBND Bản Giang, huyện T, tỉnh Lai Châu. Do đó đủ
điều kiện miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí
Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm b khon 2 Điu 251, đim s khon 1, khoản 2 Điu 51 B lut nh
s; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật
tố tụng hình sự; Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1
Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án; Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình s:
[1] Tuyên b b o n T phm tội "Mua n trái phép chất ma túy".
[2] V nh pht: X pht b o 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tính
từ ngày 21/8/2023.
[3] Về vật chứng của vụ án:
- Tịch thu, tiêu hủy: một phong thư thông dụng, bên trong 01 bật lửa gas
bằng nhựa màu đỏ; 01 mảnh giấy màu bạc có vết cháy đen; 01 mảnh nilon màu xanh.
Mặt trước của phong bì có ghi “Vật chứng thu giữ của Vàng Văn Chủ”; Một phong bì
thư thông dụng, bên trong 01 bật lửa gas bằng nhựa màu xanh nhạt; 01 mảnh giấy
màu bạc vết cháy đen; 01 mảnh nilon màu xanh. Mặt trước của phong ghi
“Vật chứng thu giữ của Vàng Văn N”; Một phong ng văn của Công an thành
phố L bên trong 02 mảnh nilon màu xanh. Mặt trước của phong ghi “Vật
chứng còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định thu giữ của Lù Văn T trong quá trình bắt
quả tang ngày 21/8/2023”.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước đối với số tiền 200.000 đồng (Hai trăm
nghìn đồng) được niêm phong trong 01 phong công văn của Công an thành phố L,
tỉnh Lai Châu, mặt trước của phong niêm phong ghi Stiền thu giữ của
Văn T trong quá trình bắt quả tang, ngày 21/8/2023
7
(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng hồi 14 giờ 30 phút
ngày 08/12/2023 giữa Công an thành phố L, tỉnh Lai Châu và Chi cục thi hành án T
sự thành phố L, tỉnh Lai Châu).
[5] V án phí: Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
[6] V quyn kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân
dân cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lai Châu;
- VKSND tỉnh Lai Châu;
- Công an thành phố L;
- VKSND thành phố L;
- Chi cục THADS thành phố L;
- Sở tư pháp tỉnh Lai Châu;
- Bị cáo;
- Lưu HSVA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ toạ phiên t
(đã ký tên, đóng dấu)
Nguyễn Bích Nga
Tải về
Bản án số 14/2024/HS-ST Bản án số 14/2024/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất