Bản án số 37/2020/HS-ST ngày 23/11/2020 của TAND huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2020/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 37/2020/HS-ST ngày 23/11/2020 của TAND huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Mộc Châu (TAND tỉnh Sơn La)
Số hiệu: 37/2020/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 23/11/2020
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 23/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2020/TLST-HS ngày 13/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2020/QĐXXST-HS ngày 13/11/2020 đối với bị cáo:

Hờ A D: Sinh năm 1990, tại huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu P, thị trấn N, huyện M, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): Không biết chữ; dân tộc: Mông; giơi tinh : Nam; tôn giáo: Không; quôc tich: Viêt Nam; con ông Hờ A Sếnh (đã chết) và bà Thào Thị Dế; bị cáo có vợ là Sồng Thị May (đã ly hôn), có 02 con. Tiền án: Không.

Nhân thân: Ngày 10/5/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng tại Cơ sở điều trị nghiệm ma túy tỉnh Sơn La, chấp hành xong ngày 10/5/2020 (chưa được xóa tiền sự).

Bị tạm tạm giam giữ từ ngày 03/10/2020 đến nay, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10h00 phút ngày 03/10/2020, tổ công tác Công an xã Tân Lập, huyện Mộc Châu phối hợp với Công an thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại tiểu khu Pa khen, thị trấn Nông Trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu kiểm tra đối với Hờ A D đang đi bộ trên đường dân sinh phát hiện D đang cất giấu trong túi áo khoác bên phải 01 gói nilon màu đen bên trong đựng cục chất bột màu trắng nghi là Heroine.D khai nhận đó là ma túy củaD tàng trữ để sử dụng cho bản thân nghiện chất ma túy.

Về nguồn gốc số ma túyHờ A D khai nhận mua của một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết ở bản Lũng Xá, xã Lóng Luông, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La.

Căn cứ hành vi vi phạm, tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng và bàn giao cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu để điều tra, làm rõ.

Ngày 03/10/2020, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tiến hành mở niêm phong, xác định cục chất bột màu trắng thu giữ của Hờ A D có khối lượng 0,57 gam. Lấy toàn bộ 0,57 gam làm mẫu giám định, mẫu có ký hiệu D.

Tại kết luận giám định số 1543 ngày 07/10/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu D là ma túy, loại Heroine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,57 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,57 gam, loại Heroine”.

Bản c áo trạng số 198/CT-VKS ngày 13/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Hờ A D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hờ A D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

 Xử phạt bị cáoHờ A D từ 21 tháng đến 23 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự về vật chứng của vụ án đề nghị:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụHờ A D, bắt ngày 03/10/2020, bên trong đựng 01 mảnh ni lon màu đen và vỏ niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy vớiHờ A D kết quả dương tính, 01 phong bì niêm phong hồi 08h00 phút ngày 07/10/2020 tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã được bóc mở và chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký kiệu D, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,50 gam.

3. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về hành vi: Ngày 03/10/2020,Hờ A D có hành vi tàng trữ trái phép 0,57 gam Heroine, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ vào khối lượng ma túy bị cáo cất giấu, mục đích tàng trữ đã đu yêu tô câu thanh tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Tại phiên toà, bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu.

Xét lời khai của bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định số lượng lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiên và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, xét về nhân thân của bị cáo là xấu, là đối tượng nghiện hút chất ma túy, đã được đưa đi điều trị cai nghiện nhưng sau khi hết hạn trở về lại tiếp tục tái nghiện, cho thấy bị cáo chưa thực sự sửa chữa. Do đó cần phải cách ly bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[4] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra, xác minh và xét hỏi tại phiên toà thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì có giá trị. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụHờ A D, bắt ngày 03/10/2020, bên trong đựng 01 mảnh ni lon màu đen và vỏ niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy vớiHờ A D kết quả dương tính, 01 phong bì niêm phong hồi 08h00 phút ngày 07/10/2020 tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã được bóc mở và chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký kiệu D, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,50 gam, là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng, cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai, do bị cáo không biết tên tuổi, lai lịch người này nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu không có căn cứ để điều tra, xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8] Thơi han tam giam của bị cáo còn dưới 45 ngày nên Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáoHờ A D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáoHờ A D 23 (Hai mươi ba) tháng tù.

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 03/10/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Về vật chứng của vụ án:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi vật chứng vụHờ A D, bắt ngày 03/10/2020, bên trong đựng 01 mảnh ni lon màu đen và vỏ niêm phong ban đầu; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi test thử ma túy vớiHờ A D kết quả dương tính, 01 phong bì niêm phong hồi 08h00 phút ngày 07/10/2020 tại phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La gồm 01 phong bì niêm phong mẫu gửi giám định đã được bóc mở và chất bột màu trắng thuộc mẫu gửi giám định ký kiệu D, không sử dụng đến trong quá trình giám định có khối lượng 0,50 gam.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chiu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn).

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 37/2020/HS-ST Bản án số 37/2020/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất