Bản án số 368/2024/DS-PT ngày 14/09/2024 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 368/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 368/2024/DS-PT ngày 14/09/2024 của TAND tỉnh Tây Ninh về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Tây Ninh
Số hiệu: 368/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 14/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc giữa bà Nguyễn Thị Hải với ông Ngô Văn Phi
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TÂY NINH
CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản số: 468/2024/DS-PT
Ngày: 14 9 - 2024
V/v Tranh chấp dân sự về
Hợp đồng đặt cọc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
         
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: ông Nguyễn Văn Nam.
Các Thẩm phán: ông Chí Quốc; ông Trần Thanh Tòng.
    Thị Bảo Thoa - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Tây
Ninh.
              ông
Bùi Quốc Việt Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh, xét xử
phúc thẩm công khai vụ án thụ số 346/2024/TLPT-DS, ngày 21 - 8 - 2024 về
việc “Tranh chấp dân sự về Hợp đồng đặt cọc”.
Do Bản án dân sự thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 09 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thị Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 415/2024/QĐ-PT ngày
22 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm 1955; trú tại: Khu phố H,
phường A, thị T, tỉnh Tây Ninh, (vắng mặt)
- Người đại diện theo ủy quyền của H: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh
năm 1990; trú tại: Ấp P, P, thị T, tỉnh Tây Ninh, theo Hợp đồng ủy quyền
ngày 02-4-2024, (có đơn vắng mặt)
- B đơn: Ông Ngô Văn P, sinh năm 1973; trú tại: Ấp B, xã P, thị xã T,
tỉnh Tây Ninh, (vắng mặt)
- Người đại diện theo ủy quyền của ông P: Anh Nguyễn Đức C, sinh năm
1985; cư trú tại: Số H đường T, khu phố N, phường N, thành phố T, tỉnh Tây Ninh,
theo Hợp đồng ủy quyền ngày 20-01-2024, (có đơn vắng mặt)
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Dương Thị C1, sinh năm 1976; trú tại: Ấp B, P, thị T, tỉnh
Tây Ninh, (vắng mặt)
Người đại diện theo ủy quyền của C1: Anh Nguyễn Đức C, sinh năm
1985; cư trú tại: Số H đường T, khu phố N, phường N, thành phố T, tỉnh Tây Ninh,
theo Hợp đồng ủy quyền ngày 20-01-2024, (có đơn vắng mặt)
2. Chị Nguyễn Đỗ Minh T, sinh năm 2004; trú tại: Khu phố H, phường A,
thị T, tỉnh Tây Ninh, (có đơn xin vắng mặt)
- Người kháng cáo: ông Ngô Văn P, Dương Thị C1 bị đơn người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo Đơn khởi kiện các lời khai trong quá trình giải quyết v án, người
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Huỳnh N trình bày:
Ngày 08-9-2022, H và vợ chồng ông P, C1 có thỏa thuận chuyển
nhượng phần đất diện tích ngang 15m, dài hết đất khoảng 93m (có 100m
2
thổ cư)
trong tổng diện tích 9.355m
2
, thửa 1320, 1324, 1328, 1313, 1331, 1332, 1333, tờ
bản đồ số 4, tọa lạc ấp B, P, thị T, tỉnh Tây Ninh, với g 2.175.000.000 đồng,
H đặt cọc trước 250.000.000 đồng, s tiền còn lại hẹn trong thời hạn 120 ngày
kể từ ngày 08-9-2022 đến ngày 08-01-2023 sẽ giao đủ ra công chứng hợp đồng
chuyển nhượng quyền s dụng đất.
Thời điểm thỏa thuận đặt cọc mặt H, vợ chồng ông P, C1, anh
Nguyễn Văn Phước T1 anh Nguyễn Văn T2, anh Nguyễn Hữu T3 chứng kiến,
không mặt chị T. Số tiền đặt cọc 250.000.000 đồng là tiền của H nhưng do
H định mua phần đất này cho cháu ruột Nguyễn Đỗ Minh T nên yêu cầu ghi tên
chị T vào Bên mua (bên B) của Hợp đồng đặt cọc.
Tại thời điểm thỏa thuận đặt cọc, H xem đất nhưng do mắt mờ nên bà
H không xem giấy đất nhưng nhờ anh T3, anh T2, anh T1 xem giấy đất giùm.
Sau khi xem, H không nghe anh T3, anh T2, anh T1 nói gì. Đến sáng ngày 09-9-
2022 H mới phát hiện giấy đất do K đứng tên nên H liên hệ ông P yêu cầu
hủy hợp đồng đặt cọc trả cọc nhưng nhà ông P đã về quê nên ngày 15-9-2022,
ông P đến nhà H, H yêu cầu ông P trả lại tiền cọc nhưng ông P nói không
còn tiền đ trả lại nên lập Tờ cam kết, ông P nói phần đất này các anh, em trong gia
đình đang làm thủ tục thừa kế cho ông P nên hẹn thêm 01 tháng nữa kể từ ngày 15-
9-2022 để hoàn tất thủ tục thừa kế, H sẽ giao thêm cho ông P 550.000.000 đồng
nên H đồng ý.
Trong khoảng thời gian t ngày 08-9-2022 cho đến ngày 08-01-2023, H
nhắc nhở ông P ra công chứng hợp đồng nhiều lần nhưng ông P vẫn chưa làm
xong thủ tục thừa kế nên không ra công chứng được nên H yêu cầu hủy cọc
trả cọc t ông P hứa để bán đất trả tiền lại cho H nhưng sau khi bán đất,
ông P vẫn chưa trả tiền lại cho bà H.
Do đó, hợp đồng không công chứng được do lỗi của ông P, C1. Nay
H yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc, yêu cầu ông P, C1 trả lại cho H số tiền đặt
cọc 250.000.000 đồng, không yêu cầu phạt cọc.
Anh Nguyễn Đức C người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Ngô Văn
P người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Dương Thị C1 trình bày:
Ngày 08-9-2022, vợ chồng ông P, C1 H thỏa thuận chuyển
nhượng phần đất diện tích ngang 15m, dài hết đất khoảng 93m (có 100m
2
thổ cư)
trong tổng diện tích 9.355m
2
trên, với g 2.175.000.000 đồng, H đặt cọc trước
250.000.000 đồng đã giao đủ số tiền này cho v chồng ông P, C1, số tiền còn
lại hẹn trong thời hạn 120 ngày kể từ ngày 08-9-2022 đến ngày 08-01-2023 sẽ giao
đủ ra công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền s dụng đất.
Tại thời điểm đặt cọc ngày 08-9-2022, H, anh T3, anh T2, anh T1 đều
xem đất, giấy đất đều biết giấy đất do mẹ ông P Huỳnh Thị K1 (đã chết)
đứng tên, ông P nói gia đình đang làm thủ tục thừa kế cho ông P đối với diện
tích 9.355m
2
trên bà H đồng ý đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Ngày 15-9-2022, H yêu cầu ông P tên vào Tờ cam kết, với nội dung
“khai nhận thừa kế đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên kể từ
ngày cam kết”, xong văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế thì H sẽ
giao cho ông P thêm 550.000.000 đồng, số tiền còn lại khi ra công chứng sẽ giao
đủ, nội dung của Tờ cam kết là do bên H viết, ai viết t anh không biết.
Khoảng tháng 10-2022, H cùng với cháu ruột H 02 người môi giới
đến nhà ông P đề nghị hủy hợp đồng đặt cọc trả lại tiền cọc 250.000.000 đồng
nhưng v chồng ông P không đồng ý. Sau đó, H gọi điện thoại yêu cầu hủy
hợp đồng đặt cọc trả lại số tiền đặt cọc 250.000.000 đồng nhưng số tiền này ông
P đã đưa cho các anh, em đ các anh, em ký thủ tục thừa kế đối với diện tích đất
trên nên không tiền trả lại cho H.
Trong thời gian từ tháng 10-2022 đến ngày 08-01-2023 H yêu cầu ông
P đến nhà để thương lượng, ông P, C1 có đến 02 lần (lần thứ nhất chỉ có mặt
ông P, C1 với H; lần thứ hai mặt ông P, ông L, H), Luật H1, anh T3,
anh T2, anh T1 mục đích xin nhận thêm tiền cọc để tiền thanh toán thêm cho
các anh, em nhưng H không đồng ý, H yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc trả
lại số tiền đặt cọc 250.000.000 đồng.
Sau khi làm thủ tục nhận thừa kế, ngày 27-7-2023 ông P được đứng tên tổng
cộng 05 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích 9.355m
2
trên, ông P
đã thế chấp 01 giấy đất số VP11183 ngày 27-7-2023 tại Ngân hàng A phòng giao
dịch P, tháng 9-2023 ông P đã chuyển nhượng phần đất diện tích 15m x 93m cho
anh Nguyễn Văn T4, chị Đoàn Thảo M. Phần đất thỏa thuận chuyển nhượng cho
H vẫn còn.
Hợp đồng không thực hiện được do lỗi của H. Do đó, ông P, C1
đồng ý hủy hợp đồng đặt cọc ngày 08-9-2022 nhưng không đồng ý trả lại số tiền
đặt cọc 250.000.000 đồng.
Tại phiên tòa thẩm, chị N giữ nguyên yêu cầu hủy hợp đồng hợp đồng đặt
cọc, không đồng ý tiếp tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên, yêu cầu ông P,
C1 trả lại cho H số tiền đặt cọc 250.000.000 đồng, không yêu cầu phạt cọc.
Tại phiên tòa thẩm, anh C đồng ý hủy hợp đồng đặt cọc, không đồng ý trả
lại số tiền ông P, C1 đã nhận cọc 250.000.000 đồng, phần đất thỏa thuận chuyển
nhượng cho bà H vẫn còn nên ông P, C1 đồng ý tiếp tục chuyển nhượng cho
H.
Tại Bản án dân sự thẩm số 75/2024/DS-ST ngày 09 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thị Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, đã quyết định:
Căn cứ vào Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của
Luật Hôn nhân gia đình; Điều 328, Điều 408 của Bộ luật Dân sự; Điều 12, 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị H đối với ông Ngô Văn
P, Dương Thị C1 về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc.
2. Tuyên bố Hợp đồng đặt cọc ngày 08-9-2022 được kết giữa bà Nguyễn
Thị H ông Ngô Văn P, Dương Thị C1 hiệu.
Buộc ông Ngô Văn P, Dương Thị C1 nghĩa vụ liên đới trả cho
Nguyễn Thị H số tiền 250.000.000 (hai trăm năm mươi triệu) đồng.
Ngoài ra, bản án còn tuyên nghĩa vụ chậm trả, án phí quyền kháng cáo
theo quy định của pháp luật.
Ngày 23 - 7 - 2024, bị đơn ông Ngô Văn P Dương Thị C1 kháng o,
yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị H.
Tại phiên toà phúc thẩm: Đại diện theo uỷ quyền của đồng bị đơn đơn xin
xét xử vắng mặt đề nghị Hội đồng xét xử theo quy định của pháp luật, bị đơn
vẫn giữa nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn đơn xin xét xử vắng mặt.
Tại phiên t phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh
phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư
phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự. Các đương sự thực hiện đúng quyền nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị
đơn giữ nguyên bản án thẩm của Toà án nhân dân thị Trảng Bàng, tỉnh Tây
Ninh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem
xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa ý kiến của đại diện
Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] V thủ tục tố tụng: ngày 23/7/2024 ông Ngô Văn P Dương Thị C2
kháng o trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện xét xử phúc thẩm. Tại phiên
Toà phúc thẩm đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan đơn xin xét xử vắng mặt căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ
luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự nêu trên.
[2] Nội dung vụ án: Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng hợp
đồng đặt cọc ngày 08/9/2022, yêu cầu ông P, C1 trả lại cho H số tiền đặt cọc
250.000.000 đồng, không yêu cầu phạt cọc. Ông Ngô Văn P, Dương Thị C1
đồng ý hủy hợp đồng đặt cọc, không đồng ý trả lại số tiền ông P, C1 đã nhận
cọc 250.000.000 đồng, phần đất thỏa thuận chuyển nhượng cho H vẫn còn nên
ông P, C1 đồng ý tiếp tục chuyển nhượng cho H.
[3] Xét kháng cáo của ông Ngô Văn P thấy rằng.
[3.1] Ngày 08/9/2022 H ông P, bà C1 thoả thuận đặt cọc
250.000.000 đồng để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất diện tích
ngang 15m, dài hết đất khoảng 93m (có 100m
2
thổ cư) trong tổng diện tích
9.355m
2
trên, với giá 2.175.000.000 đồng, H đặt cọc trước 250.000.000 đồng và
đã giao đủ số tiền này cho vợ chồng ông P, C1, số tiền còn lại hẹn trong thời
hạn 120 ngày kể từ ngày 08-9-2022 đến ngày 08-01-2023 sẽ giao đủ và ra công
chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng đến ngày 27/7/2023 ông
P mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vi phạm thời hạn đảm bảo
thực hiện hợp đồng mặc việc vi phạm này do điều kiện khách quan nên
Nguyễn Thị H khởi kiện yêu cầu huỷ hợp đồng đặt cọc ngày 08/9/2020 yêu cầu
ông Ngô Văn P Dương Thị C1 hoàn trả lại số tiền cọc 250.000.000 đồng
sở.
[3.2] Cấp thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị H tuyên
bố Hợp đồng đặt cọc ngày 08-9-2022 được ký kết giữa Nguyễn Thị H ông
Ngô Văn P, bà Dương Thị C1 hiệu buộc ông Ngô Văn P, Dương Thị
C1 nghĩa vụ liên đới trả cho Nguyễn Thị H số tiền 250.000.000 (hai trăm
năm mươi triệu) đồng căn cứ.
[3.3] Ông Ngô Văn P Dương Thị C1 kháng cáo không cung cấp được
chứng cứ mới nên không căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông Ngô Văn P
Dương Thị C1 giữ nguyên bản án thẩm.
[4] Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tại
phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[5] Về án phí phúc thẩm do yêu cầu kháng o của ông Ngô Văn P
Dương Thị C1 không được chấp nhận nên ông P, C1 phải chịu 300.000 đồng án
phí dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án p ông P, C1 đã
nộp 300.000 đồng ông P, C1 đã nộp theo biên lai thu số 0015702 ngày 31 tháng
7 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân sự thị Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh ông P,
C1 đã nộp xong án phí dân sự phúc thẩm.
các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Ngô Văn P
Dương Thị C1.
- Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 75/2024/DS-ST ngày 09 tháng 7
năm 2024 của Tòa án nhân dân thị Trảng ng, tỉnh Tây Ninh.
Căn cứ vào Điều 147, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của
Luật Hôn nhân gia đình; Điều 328, Điều 408 của Bộ luật Dân sự; Điều 12, 26
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc Hội.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyễn Thị H đối với ông Ngô Văn
P, Dương Thị C1 về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc.
2. Tuyên bố Hợp đồng đặt cọc ngày 08-9-2022 được kết giữa bà Nguyễn
Thị H ông Ngô Văn P, Dương Thị C1 hiệu.
Buộc ông Ngô Văn P, Dương Thị C1 nghĩa vụ liên đới trả cho
Nguyễn Thị H số tiền 250.000.000 (hai trăm năm mươi triệu) đồng.
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền
còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
Dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật quy định khác.
3. Về án phí dân s thẩm:
Ông Ngô Văn P, Dương Thị C1 phải chịu 12.800.000 (mười hai triệu tám
trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự thẩm (trong đó án phí dân sự thẩm giá
ngạch 12.500.000 đồng án phí dân sự thẩm không giá ngạch 300.000
đồng).
Nguyễn Thị H được miễn tạm ứng án phí không phải chịu tiền án phí
dân sự thẩm.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: ông Ngô Văn P, Dương Thị C1 phải chịu
300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự phúc thẩm nhưng được khấu trừ số tiền
tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm ông P, C1 đã nộp theo biên lai thu số 0015702
ngày 31 tháng 7 năm 2024 của Chi cục thi hành án dân s thị Trảng Bàng, tỉnh
Tây Ninh ông P, C1 đã nộp xong án phí dân sự phúc thẩm.
5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
 
- VKSND.TTN;
- TAND thị Trảng Bàng;
- Chi cục THADS thị Trảng Bàng
- Phòng KTNV. TATTN;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu VP TAND tỉnh;
- Lưu tập án DSPT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Nam
Tải về
Bản án số 368/2024/DS-PT Bản án số 368/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 368/2024/DS-PT Bản án số 368/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất