Bản án số 714/2024/HNGĐ-ST ngày 18/12/2024 của TAND huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 714/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 714/2024/HNGĐ-ST ngày 18/12/2024 của TAND huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Giồng Riềng (TAND tỉnh Kiên Giang)
Số hiệu: 714/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 18/12/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Thị B yêu cầu ly hôn anh Danh C
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN GIỒNG RIỀNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH KIÊN GIANG
Bản án số: 714/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 18 - 12 - 2024
V/v: “ Tranh chấp về ly hôn,
nuôi con chung’’
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Cẩm Hương
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Huỳnh Hoàng Nam
2. Bà Nguyễn Thị Cẩm Bình
- Thư phiên tòa: Thị Mỹ Nhan - TTòa án nhân dân huyện
Giồng Riềng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Riềng tham gia phiên
Tòa: Bà Trần Thúy An Kiểm sát viên.
Trong ngày 18 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân n huyện Giồng
Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý
số: 223/2024/TLST - HNGĐ ngày 24 tháng 4 năm 2024, về việc “Tranh chấp về ly
hôn, nuôi con chung, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 455/2024/QĐXXST-
HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Thị B, sinh năm: 1988 (có đơn xin vắng mặt)
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
Bị đơn: Anh Danh C, sinh năm: 1987 (vắng mặt)
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện tại bản tự khai, nguyên đơn chị Thị B trình bày: Chị
anh Danh C tự tìm hiểu quen biết nhau, tự nguyện đi đến hôn nhân vào năm
2008, có đăng ký kết hôn được Ủy ban nhân dân T, huyện Giồng Riềng, tỉnh
Kiên Giang chứng nhận kết hôn. Kể từ ngày chung sống vợ chồng giữa chị anh
C không hạnh phúc, bất đồng quan điểm thường xuyên xảy ra cự cãi. Anh C chỉ ăn
chơi không lo làm ăn, mỗi lần cự cải thì anh C dùng bạo lực đánh đập chị, cha mẹ
hai bên đều biết khuyên ngăn nhiều lần nhưng anh C không thay đổi tánh tình.
Mặc bị đối xử bạo lực nhưng chị không trình o với chính quyền nghĩ tình
nghĩa vợ chồng, chị tha thứ bỏ qua nhưng giữa chị và anh C tình cảm đã rạn nứt và
đã sống ly thân nhau. Xét thấy, tình cảm vợ chồng đã không còn, mâu thuẫn v
2
chồng ngày càng thêm trầm trọng, cố gắng sống vi nhau cũng không mang
lại hạnh phúc. vậy, chị yêu cầu ly hôn anh C. Quá trình chung sống, chị và anh
C có hai con chung tên Danh Thị Ngọc T, sinh ngày 28/10/2009 và Danh Thị Ngọc
A, sinh ngày 13/3/2019. Hiện nay, con đang sống với chị, chị yêu cầu được quyền
trực tiếp nuôi dưỡng con chung không yêu cầu anh C cấp dưỡng. Về tài sản chung,
chị xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, không có.
Tại bản tự khai qtrình giải quyết vụ án tại Tòa bị đơn anh Danh C
trình bày: Anh xác định trình bày của chị B về hôn nhân, con chung đúng. Anh
C thừa nhận giữa vợ chồng cũng xảy ra mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu
thuẫn nhỏ hàng ngày cự cải lời qua tiếng lại. Vchồng ng đi làm tại Thành phố
Hồ Chí Minh, đến trước tết nguyên đán năm 2024 thì xảy ra mâu thuẩn, chị B bỏ
về nhà cha mruột sinh sống cho đến nay. Từ đó cho đến nay anh không liên lạc
được với chị B cũng không gặp mặt được do anh bận đi làm xa ít khi về nhà,
anh điện thoại để hỏi thăm vợ con thì gia đình chị B không cho gặp, thời gian
sau này thì không còn liên lạc được nữa.
Nay chB yêu cầu ly hôn, anh không đồng ý còn thương vợ, anh muốn
được hàn gắn để cùng nhau chăm lo cho các con.
Về nợ chung anh C xác định không có. Tuy nhiên về tài sản chung anh C cho
rằng anh và chị B có mua một thửa đất thổ cư ngang 7m x dài 36m giá 03 chỉ vàng
của ông Danh K Thị E, khi mua chỉ làm giấy tay hiện nay vẫn chưa tách
quyền sử dụng đất, nhưng anh C xác định anh không đồng ý ly hôn nên không yêu
cầu giải quyết gì về tài sản chung.
Về con chung, anh C yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con chung tên Danh
Thị Ngọc A, sinh ngày 13/3/2019, không yêu cầu chị B cấp dưỡng nuôi con.
Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:
Vtrình tự thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, nguyên đơn được thực hiện đúng theo qui định của Bộ luật tố tụng
dân sự. Riêng bị đơn không thực hiện đúng quyền nghĩa vụ của mình được quy
định tại Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Hôn nhân giữa chị B anh C hợp pháp
do đăng kết n được Ủy ban nhân n T, huyện Giồng Riềng chứng
nhận kết hôn. Chị B cho rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài vì chị thường xuyên bị bạo lực và tình cảm đã không
còn; trái lại, anh C không đồng ý ly hôn, anh C thừa nhận giữa vợ chồng ng
xảy ra mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ hàng ngày cự cải lời qua
tiếng lại không đến mức phải ly hôn. Qua ý kiến của chB và anh C, thấy rằng hiện
anh chị đã ly thân nhau nên không sự quan tâm chăm sóc vi phạm quyền và
nghĩa vụ của vchồng, dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích xây dựng hôn nhân lâu dài bền vững
không đạt được nên chị B yêu cầu ly hôn anh C có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét
xử áp dụng khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, chấp nhận cho
chị B được ly hôn anh C.
3
Về con chung, chị B và anh C cùng xác định có hai con chung tên Danh Thị
Ngọc T, sinh ngày 28/10/2009 và Danh Thị Ngọc A, sinh ngày 13/3/2019. Hiện
nay T cháu A đang sống với chị B. Chị B yêu cầu được quyền nuôi dưỡng con
chung, không yêu cầu anh C cấp dưỡng. Trái lại anh C ý kiến nếu chị B muốn
ly hôn thì anh yêu cầu được quyền nuôi dưỡng cháu A, không yêu cầu chị B cấp
dưỡng nuôi con. Xét thấy, kể từ khi chị B, anh C ly thân nhau, cháu A sống bên gia
đình chị B, cháu vẫn phát triển tốt. Anh C cũng không chứng cứ chứng minh
việc chị B nuôi con không tốt. Đối với cháu T hiện đã trên 07 tuổi, tại bản tự khai
cháu T ý kiến sống với chị B. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81, 82 của
Luật hôn nhân gia đình giao cháu T cháu A cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung nợ chung; Chị B, anh C không yêu cầu
nên đề nghị không xem xét, khi nào các đương sự tranh chấp sẽ khởi kiện
giải quyết thành vụ kiện khác.
Về án phí, đề nghị buộc chị B phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy
định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về trình tự thủ tục tố tụng: Chị Thị B khởi kiện yêu cầu được ly hôn,
nuôi con chung với anh Danh C nên đây là tranh chấp hôn nhân gia đình về ly
hôn, nuôi con chung được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bluật Ttụng dân
sự anh C nơi trú tại huyện Giồng Riềng nên theo quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sthì vụ án
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên
Giang.
Anh Danh C với cách bị đơn trong vụ kiện, Tòa án nhân dân huyện
Giồng Riềng đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa
cho anh C nhưng anh vắng mặt. Chị B với cách nguyên đơn có đơn xin vắng
mặt. Vì vậy, Tòa án nhân n huyện Giồng Riềng tiến hành đưa vụ kiện ra xét xử
vắng mặt chị B, anh C hoàn toàn phù hợp với quy định tại khoản 1, điểm b
khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] quan hhôn nhân: Chị Thị B anh Danh C tự tìm hiểu quen biết
trước được gia đình cha mẹ hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2008, đăng kết
hôn được Ủy ban nhân dân T, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang chứng
nhận kết hôn nên hôn nhân của anh chị được xem hợp pháp. Chị B cho rằng vợ
chồng chung sống không hạnh phúc, anh C ăn chơi, thiếu trách nhiệm với gia đình
nên chị anh C đã ly thân nhau từ năm 2023 cho đến nay. Tuy nhiên, anh C có ý
kiến trái ngược với chB, anh C thừa nhận giữa vchồng xảy ra mâu thuẫn
nhưng không đến mức phải ly hôn, anh mong muốn được hàn gắn để chăm lo cho
con. Xét thấy, anh C ý kiến còn thương vợ mong muốn hàn gắn tình cảm vợ
chồng để chăm lo cho con nhưng không đưa ra được giải pháp nào để thể tháo
gỡ những mâu thuẫn phát sinh giữa vợ chồng, bản thân anh C cũng không thiện
chí hàn gắn. Bởi lẻ, trong quá trình thụ giải quyết vụ án, Tòa án thông báo
cho anh C chị B biết mặt tại Tòa để hòa giải nhưng anh C vắng mặt. Mặc
4
khác, theo sự xác nhận của anh C là giữa anh chị B xảy ra mâu thuẫn ch
B đã sống ly thân với anh từ đầu năm 2024 cho đến nay. Điều này chứng tỏ, mâu
thuẫn vợ chồng giữa anh C và chị B đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích xây dựng hôn nhân lâu dài bền vững không đạt được nên chị
B yêu cầu ly hôn anh C căn cứ. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội
đồng xét xử chấp nhận cho chị B được ly hôn với anh C.
[2.2] Về con chung: Chị B, anh C cùng xác định có hai con chung tên Danh
Thị Ngọc T, sinh ngày 28/10/2009 và Danh Thị Ngọc A, sinh ngày 13/3/2019; hiện
các con đang sống với chị B. Ch Byêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con,
không yêu cầu anh C cấp dưỡng. Về tài sản và nợ chung chị không yêu cầu Tòa án
giải quyết. Tại bản khai, anh C ý kiến cho rằng chB muốn ly hôn, thì giao con
chung tên Danh Thị Ngọc A, sinh ngày 13/3/2019 cho anh nuôi dưỡng. Xét thấy,
hiện tại cháu A sống bên gia đình chị B, cháu vẫn phát triển tốt về thể chất lẫn tinh
thần. Đối với cháu T, tại bản tự khai, cháu ý kiến sống với chị B. Hội đồng xét
xử áp dụng Điều 81, 82 của Luật hôn nhân gia đình, x giao cháu T cháu A
cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng.
[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị B không yêu cầu anh C cấp dưỡng, xét
thấy các con đang sống với chị B vẫn ổn định phát triển bình thường, anh C
cũng không chứng cứ chứng minh rằng việc chị B nuôi hai con không tốt.
Bản thân chB đi làm thu nhập, đảm bảo việc nuôi dạy con cái nên việc chị B
không yêu cầu anh C cấp dưỡng là tnguyện, đảm bảo đủ điều kiện kinh tế để
nuôi con mà không cần có sự cấp dưỡng của anh C nên chB không yêu cầu anh C
cấp dưỡng, Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.4] Về tài sản chung: Chị B không yêu cầu anh C cũng xác định không
yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét. Khi nào tranh chấp thì khởi kiện
sau.
[2.5] Về nợ chung: Chị B, anh C xác định không có nên không xem xét.
[3] Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm
a, khoản 5 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu,
miễn, giảm, thu nộp, quản và sử dụng án phí lệ p Tòa án; án phí ly hôn
thẩm buộc chị B phải nộp 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng
án phí mà chị B đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền s 0002744 ngày 24
tháng 4 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân shuyện Giồng Riềng. Chị B đã
nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm nên không phải nộp thêm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 4 Điều 147, khoản 1- điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1-3 Điều 228, Điều
238, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Ttụng dân sự; điểm a, khoản 5
5
Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm,
thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 của Luật Hôn nhân gia
đình năm 2014; x:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Thị B được ly hôn với anh Danh
C.
2. Về con chung: Giao cháu Danh Thị Ngọc T, sinh ngày 28/10/2009
Danh Thị Ngọc A sinh ngày 13/3/2019 cho chị Thị B trực tiếp nuôi dưỡng. Anh
Danh C không phải cấp dưỡng nuôi con do chị B không yêu cầu.
Anh Danh C quyền đến thăm nom, chăm sóc, dạy dỗ con chung không ai
có quyền cản trở.
3. Về tài sản và nợ chung: Không yêu cầu giải quyết.
4. Về án phí: Án phí ly hôn thẩm 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)
buộc chị Thị B phải nộp nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị B đã
nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0002744 ngày
24 tháng 4 năm 2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng. Chị B đã
nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm nên không phải nộp thêm.
Báo cho các bên đương sự biết quyền kháng cáo bản án trong hạn luật
định 15 (mười lăm) ngày được tính kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc
bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh, huyện;
- Thi hành án dân sự huyện;
- UBND xã;
- Các đương sự;
- Lưu.
Nguyễn Thị Cẩm Hương
Tải về
Bản án số 714/2024/HNGĐ-ST Bản án số 714/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 714/2024/HNGĐ-ST Bản án số 714/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất