Bản án số 101/2024/HNGĐ-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 101/2024/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 101/2024/HNGĐ-ST ngày 27/09/2024 của TAND huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước về tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Bù Đăng (TAND tỉnh Bình Phước)
Số hiệu: 101/2024/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2024
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chia tài sản chung, nợ chung sau khi ly hôn
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN BÙ ĐĂNG Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH BÌNH PHƯỚC
Bản án số: 101/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 27 - 9 - 2024
V/v: “Yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con;
chia tài sản chung và nợ chung sau khi ly hôn
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC
Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
- Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trương Thị Đào
- Các Hội thẩm nhân dân: Bà Võ Thị Ngọc
Ông Trần Ngọc Thiện
- Thư phiên tòa: Mai Thị Chang TTòa án của Tòa án huyện Đăng,
tỉnh Bình Phước.
- Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng tham gia phiên tòa: Bà Mai Thị
Thanh Tâm Kiểm sát viên.
Trong ngày 24 ngày 27 tháng 9 m 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện
Đăng, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử thẩm công khai vụ án Hôn nhân
gia đình thẩm thụ số: 398/2020/TLST HNGĐ, ngày 13 tháng 10 năm 2020 về
việc tranh chấp " Yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, chia tài sản chung nợ
chung sau khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 198/2024/QĐST
HNGĐ, ngày 09 tháng 9 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1989
2. Bị đơn: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1984
Cùng địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước. (Đều có mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Hạt kiểm lâm huyện Bù Đăng
Địa chỉ: Khu Đức Lập, thị trấn Đức Phong, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
Người đại diện: Ông Cao Thanh N Phó hạt trưởng. (Vắng mặt, có đơn xin vắng
mặt)
- Anh Hoàng Văn H1, sinh năm 1977 (Có mặt)
- Anh Hoàng Văn H2, sinh năm 1980 (Vắng mặt, xin vắng mặt)
- Anh Hoàng Văn H3, sinh năm 1982 (Vắng mặt, xin vắng mặt)
- Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1987 (Vắng mặt, xin vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Tại đơn khởi kiện quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Đặng Thị T
trình bày:
Về quyền nuôi con chung: Chị Đặng Thị Tanh Hoàng Văn H ly hôn với nhau
theo Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn sự thỏa thuận của các đương sự số
02/2017/QĐST-HNGĐ ngày 05/01/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đăng. Theo
quyết định này thì các con chung là cháu Hoàng Thanh H, sinh ngày 11/3/2010 và cháu
Hoàng Huy H, sinh năm 05/8/2012 được giao cho anh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.
Tuy nhiên, hiện nay anh H đã lập gia đình khác và có thêm 02 con riêng với vợ mới nên
chị T nhận thấy anh H không thể chu toàn chăm sóc cho các con chung. Do đó, chị T
yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu H cháu Hiệu cho đến khi các cháu
thành niên; yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi các con mỗi tháng 2.000.000đồng cho đến
khi các con chung thành niên.
Về tài sản chung: Qtrình chung sống chị T anh H các tài sản chung gồm:
Thửa đất diện tích 15.135,3m
2
, tọa lạc tại Thôn A, B, huyện C, tỉnh Bình
Phước; đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tài sản trên đất gồm cây
điều, phê, cây tiêu. Thửa đất này nguồn gốc của bmẹ anh H khai phá, khi về
chung sống với anh H thì trên đất đã sẵn cây điều một ít cây phê. Đến năm 2009
thì chị T anh H cùng trồng thêm cây cà phê, năm 2013 thì trồng cây tiêu. Khi trồng
điều tiêu thì chị T, anh H hỏi ý kiến T; người trực tiếp trồng cây chị T anh
H còn nguồn tiền mua cây giống là do bà T đưa.
Thửa đất thứ hai diện tích 10.504,8m
2
(đo đạc thực tế 10.587,3m
2
), tọa lạc
tại Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước; đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, tài sản trên đất có cây cao su. Nguồn gốc thửa đất này là do gia đình anh H
khai phá trước khi chị T kết hôn với anh H, trước đây thửa đất này trồng cây cừ do
anh H T trồng. Năm 2011, chị T anh H cắt cây cừ để trồng cây cao su. Người
trồng chị T, anh H các anh của anh H phụ trồng. Nguồn tiền để đầu trồng cây
cao su là từ tiền bán cây xà cừ do bà T đưa. Sau khi trồng cây cao su thì anh H và chị T
trực tiếp chăm sóc và thu hoạch cây cao su.
Mặc dù, sau khi kết hôn chị T sống cùng anh H, T cả 03 người trực tiếp
canh tác thu hoạch hoa màu trên đất nhưng số tiền thu được từ hoa màu là do bà T quản
lý, bà T cũng người lo chi tiêu trong gia đình. Bà T nói cho chị T và anh H 02 thửa
đất nêu trên để quản lý, sử dụng nhưng chỉ nói miệng, không lập văn bản.
Thửa đất thứ 3 diện tích 3.118,5m
2
(đo đạc thực tế 3.141,9m
2
) tọa lạc tại
Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước; đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, tài sản trên đất cây điều. Thưa đất này nguồn gốc do chị T anh H nhận
chuyển nhượng của vợ chồng anh Phùng Ngọc Tường, chị Trần Thị O với giá
150.000.000đồng, nguồn tiền dùng để nhận chuyển nhượng của vợ chồng chị T thu
hoạch điều trên diện tích đất 15.135,3m
2
và diện tích đất 20.648,8m
2
(diện tích đất này
đã được chia tại Bản án Hôn nhân gia đình thẩm số 67/2018/HNGĐ- ST ngày
27/9/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng).
Do đó, chị T yêu cầu chia đôi tài sản chung 03 thửa đất nêu trên cùng tài sản
trên đất, chị T anh H mỗi người được hưởng ½ các tài sản này. Chị T yêu cầu được
nhận bằng hiện vật, trường hợp không chia được theo hiện vật thì chị T sẽ nhận bằng giá
trị tương đương với tài sản được chia.
Đối với các khoản nợ chung: Chị T xác định trong quá trình chung sống khoản
nợ như anh H trình bày. Tuy nhiên, chị T chỉ đồng ý trả 1/3 khoản nợ 150.000.000 đồng
3
của Ngân hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh Bình Phước- Phòng giao dịch huyện
Bù Đăng vì khoản nợ này cả chị T, bà T và anh H vay để đầu tư cây trồng, múc ao. Đối
với số tiền vay Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam - Phòng giao
dịch Thống Nhất 50.000.000 đồng khoản nợ Ngân hàng chính sách Việt Nam- chi
nhánh tỉnh Bình Phước- phòng giao dịch Đăng 26.000.000 đồng do anh H vay, chị
T không biếtkhông được sử dụng nên chị T không đồng ý trả các khoản nợ này. Đối
với khoản nợ hội người cao tuổi của Thôn 3, Phước Sơn là 5.000.000 đồng là do
T vay nên chị T không đồng ý trả khoản này.
Bị đơn anh Hoàng Văn H trình bày:
Về quyền nuôi con chung: Về việc ly hôn giữa anh H và chị Đặng Thị T thỏa
thuận nuôi con chung khi ly hôn thì anh H thống nhất với lời trình bày của chị T. Hiện
nay cháu Hoàng Thanh H cháu Hoàng Huy H đang sống cùng với anh H. Mặc dù,
anh H đã lập gia đình với người khác nhưng vẫn đảm bảo cuộc sống cho cháu H và cháu
Hiệu. Tuy nhiên, nếu cháu H cháu Hiệu muốn ở với ai thì anh H sẽ tôn trọng sự lựa
chọn của các con, không có ý kiến gì.
Về tài sản chung: Quá trình chung sống, anh H chị T không có tài sản chung
nào.
Đối với thửa đất diện tích đo đạc thực tế 15.135,3m
2
diện tích đất
10.587,3m
2
tọa lạc tại Thôn A, B, huyện C, tỉnh Bình Phước nguồn gốc vào năm
1995, anh trai của anh H anh Hoàng Văn H1 vào xã Phước Sơn sinh sống và khai phá
được một phần; đến năm 1997, bố mẹ anh H ông Hoàng Th Nông Thị T vào
cùng với anh H1 khai phá thêm thành 02 thửa đất như hiện nay. Đến năm 1999, anh H
các anh của anh H là anh Hoàng Văn H2, anh Hoàng Văn H3 vào làm 01 căn nhà
gỗ trên thửa đất 15.135,3m
2
để sinh sống. Lúc này trên 02 thửa đất đã có cây điều do bố
mẹ anh H và anh H1 trồng. Sau đó cả gia đình anh H có trồng thêm một ít cây cà phê
cây ăn trái trên thửa đất diện tích 15.135,3m
2
. Còn thửa đất diện tích 10587,3m
2
đến năm 2002, gia đình anh H phá cây điều để trồng cây xà cừ.
Năm 2000, anh H1 lập gia đình, đến năm 2001-2002 thì ra ở riêng trên phần đất
đối diện thửa đất 15.135,3m
2
cach tác trên phần đất khác anh H1 tự khai phá, đồng
thời giao lại đất cây trồng trên cả 02 thửa đất trên cho bố mẹ và các em canh tác
thu hoa màu. Năm 2005 anh H2 lập gia đình, năm 2007 anh H3 lập gia đình nhưng vẫn
chung với bố mẹ. Trong năm 2007 thì anh H2 anh H3 cũng ra riêng. Sau khi
riêng thì anh H2 và anh H3 đều canh tác trên phần đất khác của anh H2 anh H3. Năm
2007, ông Th chết đến năm 2008 thì anh H T trồng xen thêm phê trong vườn
điều. Đến năm 2009 anh H lấy chị T, sau khi lấy chị T thì anh H chị T vẫn ở chung
nhà với bà T nên cũng phụ bà T canh tác và thu hoa màu trên thửa đất này.
Đối với tài sản trên thửa đất 10.587,3m
2
vào năm 2002, anh H anh H2, anh
H1, anh H3 là người phá cây điều cây rừng để trồng cây cừ. Đến năm 2011, anh
H và anh H2, anh H1, anh H3 phá cây xà cừ để trồng cây cao su (thời điểm này chị T
nhà vì đang có con nhỏ), vốn đầu từ trồng cây cao su từ việc bán cây cừ. Sau đó,
T anh H, chị T cùng nhau canh tác quản lý, thu hoạch hoa màu trên thửa đất
này.
Do 02 thửa đất trên là của bố mẹ anh H và anh H2 khai phá nên anh H và chị T
chung T, chỉ phụ T canh tác nên khi thu hoạch hoa màu. vậy, khoản tiền thu
được đều do T quản lý, khi cần mua vật tư để phục vcho việc canh tác hoặc chi tiêu
trong gia đình thì T sẽ đưa tiền cho anh H chị T mua, khi cần thêm tiền chi tiêu thì
anh H và chị T tự vay thêm Ngân hàng và bên ngoài để sử dụng. Quá trình chung sống,
4
bà T không nói cho anh H chị T 02 thửa đất này nên sau khi ly hôn tchị T bỏ đi, 02
thửa đất này vẫn do anh H và bà T canh tác, sử dụng cho tới khi bà T chết năm 2020 t
anh H giao lại cho anh H1 quản lý, sử dụng cho tới nay. Anh H xác định 02 thửa đất này
là của bố mẹ anh H và anh H1 khai phá không phải là tài sản chung của anh H và chị T
nên không đồng ý yêu cầu chia quyền sử dụng đất và tài sản trên đất của chị T.
Đối với thửa đất diện tích 3.118,5m
2
(đo đạc thực tế 3.141,9m
2
) do một
mình anh H nhận chuyển nhượng của bà Lục Thị S, anh Phùng Ngọc Tường chị Trần
Thị O với giá 150.000.000 đồng vào năm 2016. Trong đó, anh H vay của anh trai anh
Hoàng Văn H2 số tiền 70.000.000 đồng và vay của anh Đặng Văn T số tiền 30.000.000
đồng để đặt cọc trước, số tiền còn lại 50.000.000 đồng thì đến tháng 5/2017 anh H mới
trả hết nên hai bên mới làm giấy mua bán. Khi nhận chuyển nhượng đất thì chị T có biết
nhưng anh H người trực tiếp giao dịch và trả tiền mua đất, chị T không tham gia bất
cứ giao dịch gì đối với thửa đất này. Sau khi nhận chuyển nhượng đất khoảng 01 tuần
thì chị T bỏ đi và kiện ly hôn với anh H cho đến nay. Do thửa đất này tài sản riêng của
anh H nên anh H không đồng ý chia thửa đất này cùng tài sản trên đất cho chị T.
Về khoản nợ chung: Quá trình chung sống chị T anh H các khoản nợ sau:
Khoản nợ 150.000.000 đồng của Ngân hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh Bình
Phước- Phòng giao dịch huyện Bù; khoản nợ 50.000.000 đồng của Ngân hàng Nông
nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam - Phòng giao dịch Thống Nhất khoản nợ
Ngân hàng chính sách Việt Nam- chi nhánh tỉnh Bình Phước- phòng giao dịch Đăng
26.000.000 đồng; khoản nợ hội người cao tuổi của Thôn 3, Phước Sơn 5.000.000
đồng; tổng số tiền nợ 231.000.000 đồng. Mục đích vay tiền để chi tiêu trong gia
đình, các khoản nợ này nợ chung của anh H và chị T, hiện nay anh H đã trả hết các
khoản nợ này nên anh H u cầu chị T phải thanh toán ½ khoản nợ này cho anh H tương
đương số tiền 115.500.000 đồng.
Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
Anh Hoàng Văn H1 trình bày: Thửa đất diện tích đo đạc thực tế 15.135,3m
2
10587,3m
2
chị T khởi kiện nguồn gốc do anh H1 bố mẹ ông Hoàng Th,
Nông Thị T khai phá từ năm 1996. Sau khi lập gia đình riêng thì anh H1 giao
cho bố mẹ anh H1 canh tác sử dụng để nuôi các em chứ đây không phải đất của anh H.
Đối với tài sản trên đất là cây điều trồng năm 1998 do anh H1 bố mẹ anh H1 trồng.
Cây phê trồng năm 2008 còn cây tiêu trồng năm 2015 do T vchồng anh H,
chị T trồng nhưng chị T chỉ đi trồng chứ cây giống khoản tiền đầu do T bỏ
ra. Cây cao su trên thửa đất có diện tích 10.587,3m
2
được trồng năm 2011 anh H1 các
con phụ bà T trồng chứ chi phí cây và đầu do bà T bỏ ra. Sau này thu hoạch mủ cao
su thì do T và vợ chồng H, T thu hoạch nhưng tiền thu được giao cho bà T quản lý.
Sau khi bà T chết thì anh H đã giao lại diện tích đất này cho anh H1 quản lý nhưng anh
H1 vẫn để cho anh H và vợ là chị Nguyễn Thị H canh tác sử dụng thu hoa màu để nuôi
con cái. Do đó anh H1 không đồng ý yêu cầu khởi kiện của chị T yêu cầu anh H chia đất
và tài sản trên 02 thửa đất này.
Anh Hoàng Văn H2 anh Hoàng Văn H3 trình bày: 02 thửa đất có diện tích
đo đạc thực tế 15.135,3m
2
10.587,3m
2
chị T khởi kiện nguồn gốc do anh
Hoàng Văn H1 và bố mẹ là ông Hoàng Th, bà Nông Thị T khai phá từ năm 1996-1997,
sau khi khai phá xong thì cả gia đình anh H2, anh H3 canh tác sử dụng. Đến khi anh H1
lập gia đình riêng thì giao lại cho bố mẹ để làm nơi sử dụng trồng trọt thu
hoạch hoa màu nuôi các em và gia đình. Đối với tài sản trên đất cây điều do anh H1
và bố mẹ trồng năm 1998. Cây cà phê trồng năm 2008 do anh H và bà T trồng còn cây
5
tiêu trồng năm 2015 do bà T vợ chồng anh H, chị T trồng nhưng chị T chỉ đi trồng
còn chi phí cây giống và khoản tiền đầu của T bỏ ra. Cây cao su trồng năm 2011
do các anh em trong gia đình phT trồng chứ chi phí cây đầu tư là của bà T bỏ ra.
Vợ chồng anh H, chị T chỉ phụ T canh tác, thu hoạch còn tiền thu hoạch được giao
cho bà T quản lý. Sau khi bà T chết năm 2020 thì anh em trong gia đình thống nhất giao
lại cả 02 đất cho anh H1 quản lý, sử dụng đất cho tới nay. Do đó việc chị T u cầu anh
H chia đất và tài sản trên đất là không có căn cứ.
Chị Nguyễn Thị H trình bày: Chị H vcủa anh Hoàng Văn H, chị H và anh H
kết hôn vào năm 2018, sau khi kết hôn thì chị H cùng với anh H canh tác, chăm sóc và
đầu thu hoạch hoa màu trên diện tích 15.135,3m
2
, diện tích 10.587,3m
2
diện
tích
3.141,9m
2
tọa lạc tại Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phướcchị T đang khởi
kiện. Do đó, chị H cũng ng sức đóng góp đối với 03 thửa đất này nên chị H yêu
cầu xem xét chia cho chị H phần giá trị tài sản tương đương với công sức đóng góp của
chị H.
Người làm chứng trình bày:
Chị Trần Thị O trình bày: Diện tích
3.141,9m
2
tọa lạc tại Thôn A, B, huyện
C, tỉnh Bình Phước chị T đang khởi kiện có nguồn gốc là do chị O và chồng là anh
Phùng Văn T nhận chuyển nhượng của anh Hoàng Văn L (không nhớ thời gian số
tiền chuyển nhượng). Đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất). Trên đất
cây điều phê, đến năm 2016 vợ chồng chị O đồng ý chuyển nhượng cho anh
Hoàng Văn H với giá 150.000.000 đồng, khi mua làm giấy viết tay, anh H đặt cọc
trước 10.000.000 đồng giao đất cho anh H, quản sử dụng. Số tiền này, anh H trả
cho vợ chồng chị O nhiều lần, tới ngày 20/5/2017 thì anh H mới trả hết nên hai bên làm
lại giấy mua bán khác. Quá trình chuyển nhượng đất thì chỉ giao dịch vi anh H, không
mặt chị T. Thửa đất này do vợ chồng chị O nhận chuyển nhượng nhưng khi bán
đất trong gia đình còn mẹ chồng Lục Thị S nên mới để cho Sen đứng tên trên
giấy mua bán còn thực tế chị O anh Tường người chuyển nhượng và nhận tiền từ
anh H.
Anh Nguyễn Văn Đ trình bày: Anh Đ con nuôi của bố chị Đặng Thị T. Sự
việc, anh H chị T nhận chuyển nhượng thửa đất diện tích 3.141,9m
2
tọa lạc tại
Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước như thế nào thì anh Đ không rõ. Vào khoảng
tháng 5/2017, anh Đ có gặp anh H và chị T để hỏi nhận chuyển nhượng lại phần đất có
diện tích khoảng 1.000m
2
trong thửa đất trên thì anh H, chị T đồng ý bán với giá
37.500.000 đồng. Đến ngày 11/5/2017 anh Đ và anh H có làm giấy mua bán viết tay do
anh H viết và anh Đ giao tiền chuyển nhượng cho anh H. Anh Đ nhận đất và quản lý, sử
dụng cho đến nay.
Anh Đặng Văn T trình bày: Anh T anh họ của chị T, vào khoảng năm 2016
(không nhớ thời gian), anh T cho anh H chị T vay số tiền 30.000.000 đồng, mục
đích vay để làm thì anh T không rõ nhưng đến năm 2017 thì anh H người trả cho
anh T số tiền này. Thời điểm này thì anh H và chị T không sống chung với nhau nữa.
Tại Công văn số 101/HKL- QLRVR ngày 09/10/2023 của Hạt kiểmm huyện
Đăng ý kiến: Thửa đất diện tích 15.135,2m
2
tọa lạc tại 4, khoảnh 01, tiêu
khu 258; thửa đất diện tích 10.787,2m
2
tọa lạc tại 8, khoảng 04, tiểu khu 258 và
thửa đất có diện tích 3.141,9m
2
tọa lạc tại lô 2, khoảng 02, tiểu khu 258; cả 03 thửa đất
này thuộc địa giới hành chính Thôn A, B, huyện C, tỉnh Bình Phước đất lâm nghiệp
thuộc lâm phần Hạt kiểm lâm quản đã được Ủy ban nhân dân huyện Đăng cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp 19/QSDĐ ngày 19/03/2003. Tuy
6
nhiên, đã bị các đối tượng xâm canh, chiếm đất trái pháp luật. Tuy nhiên, hiện nay Hạt
kiểm lâm huyện Bù Đăng và cơ quan có thẩm quyền chưa có kế hoạch thu hồi đất xâm
canh nên các đối tượng xâm canh tạm thời trồng cây. Riêng chủ quyền đất là Hạt kiểm
lâm là chủ đất, quản lý đất lâm nghiệp nên đề nghị Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng giải
quyết tranh chấp tài sản là cây trồng trên đất theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa:
Nguyên đơn chị Đặng Thị T thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện: Về con chung,
chị T chỉ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Hoàng Thanh H, giao cháu Hoàng Huy
H cho anh H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; về vấn đcấp dưỡng nuôi con thì chị T
không yêu cầu.
Về tài sản chung: Chị T yêu cầu chia 02 thửa đất diện tích 15.135,3m
2
10.587,3m
2
cùng tài sản trên đất thành 3 phần cho bà Nông Thị T, anh Hoàng Văn H
chị T mỗi người được một phần; chị T được nhận 1/3 tài sản này, chị T có nguyện vọng
nhận bằng hiện vật, trường hợp không chia bằng hiện vật được thì chị T nhận bằng giá
trị tương đương với tài sản được chia.
Đối với thửa đất diện ch 3.141,9m
2
thì chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu chia đôi
thửa đất này cùng tài sản trên đất cho chị Tanh H.
Về nợ chung: Chị T chỉ đồng ý trả 1/3 khoản n150.000.000 đồng vay của Ngân
hàng Công thương Việt Nam – Chi nhánh huyện Bù Đăng- Phòng giao dịch Bù Đăng.
Bị đơn anh Hoàng Văn H đồng ý với yêu cầu khởi kiện của chị T về việc thay
đổi người trực tiếp nuôi con; đồng ý giao cháu Hoàng Thanh H cho chị T trực tiếp chăm
sóc nuôi dưỡng cho tới khi cháu H thành niên, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng. Đối với
yêu cầu chia tài sản chung của chị T thì anh H không đồng ý. Đối với thửa đất diện
tích 15.135,3m
2
10.587,3m
2
, sau khi bà T chết thì anh H đã giao lại diện tích đất này
cho anh H1 quản nhưng anh H1 vẫn để cho anh H vchị Nguyễn Thị H canh
tác sử dụng thu hoa màu để nuôi con cái.
Về khoản nợ chung: Anh H rút một phần yêu cầu phản tố, chỉ yêu cầu chị T phải
trả cho anh H ½ khoản nợ chung 150.000.000 đồng vay của Ngân hàng Công thương
Việt Nam Chi nhánh huyện Bù Đăng là 75.000.000 đồng.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh H1 không đồng ý với yêu cầu khởi
kiện của chị T đề nghị chia tài sản là 02 thửa đất có diện tích 15.135,3m
2
10.587,3m
2
.
Tại phiên tòa Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng có quan điểm:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội
đồng xét xử thực hiện đúng các quy định về tố tụng.
Về nội dung giải quyết vụ án:
Về yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của chị T; giao cháu Hoàng Thanh H, sinh ngày 11/3/2010 cho chị
Đặng Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu H thành niên;
không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T yêu cầu chia tài
sản quyền sử dụng đất diện ch 15.135,3m
2
, diện tích 10.587,3m
2
diện tích
3.141,9m
2
tọa lạc tại Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị T: Chia tài sản trên thửa đất
diện tích 15.135,2m
2
thành 03 phần (bao gồm của chị T, anh HNông Thị T), chị
T được hưởng 1/3 giá trị tài sản này theo kết quả định giá của Hội đồng định giá huyện
7
Bù Đăng. Đối với tài sản trên thửa đất có diện tích 10.587,2m
2
được chia thành 4 phần
(bao gồm của chị T, anh H và Nông Thị T), do anh H công sức đóng góp nhiều
nên được hưởng hai phần, còn chị T được hưởng một gtrị tài sản trên thửa đất này
theo kết quả định giá của Hội đồng định giá huyện Bù Đăng.
Đối với tài sản trên thửa đất diện tích 3.141,9m
2
mặc được anh H nhận
chuyển nhượng trong thời kỳ hôn nhân nhưng số tiền nhận chuyển nhượng là do anh H
vay, sau khi ly hôn anh H là người trực tiếp trả các khoản nợ này. Do đó, có căn cứ xác
định tài sản trên thửa đất này là tài sản riêng của anh H. Nên yêu cầu khởi kiện của chị
T chia tài sản trên thửa đất này không được chấp nhận.
Vnợ chung Đề nghị chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn anh H, buộc chị T
phải nghĩa vụ trả cho anh H ½ số tiền vay Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chi
nhánh huyện Bù Đăng - Phòng giao dịch Bù Đăng là 75.000.000 đồng.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa,
trên sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của người tham gia tố tụng, căn
cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện và đơn
khởi kiện bổ sung của chị Đặng Thị T khởi kiện anh Hoàng Văn H nơi trú tại Thôn
A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước để yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung
và chia tài sản chung sau khi ly hôn; bị đơn anh Hoàng Văn H có yêu cầu phản tố buộc
chị T phải có nghĩa vụ trả các khoản nợ chung trong thời kỳ hôn nhân. Hội đồng xét xử
xác định đây vụ án Hôn nhân và gia đình về việc: “Yêu cầu thay đổi người trực tiếp
nuôi con chung, chia tài sản chung và nợ chung sau khi ly hôn". Căn cứ khoản 1, 3 Điều
28; điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
[2] Vsự vắng mặt của người quyền lợi nghĩa vliên quan: Xét thấy những
người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Văn H2, anh Hoàng Văn H3, chị
Nguyễn Thị H, đại diện Hạt kiểm lâm huyện Bù Đăng đã được Tòa án tống đạt các văn
bản tố tụng theo quy định nhưng vẫn vắng và có đơn xin vắng mặt, n Hội đồng xét xử
căn cứ điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với những người
này.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đăng Thị T về việc thay đổi người
trực tiếp nuôi con: Quá trình giải quyết vụ án, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng,
chăm sóc giáo dục cháu Hoàng Thanh Hcháu Hoàng Huy H cho đến khi các cháu
thành niên. Tuy nhiên, tại phiên tòa chị T chỉ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu
H, đồng ý giao cháu Hiệu cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc; về vấn đề cấp dưỡng
thì chị T không yêu cầu. Anh H ng đồng ý yêu cầu này của chị T n cần ghi nhận sự
thỏa thuận này giữa chị T anh H. Giao cháu H cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi
dưỡng và giáo dục cho đến khi cháu H thành niên, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng.
[4] Xét yêu cầu chia tài sản chung của nguyên đơn chị Đặng Thị T:
[4.1] Đối với yêu cầu chia tài sản quyền sử dụng đất với 03 thửa đất có diện
tích 15.135,3m
2
, 10.587,3m
2
và 3.141,9m
2
tọa lạc tại Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình
Phước. Theo Văn bản số 2068/UBND TD ngày 23/12/2022 của Ủy ban nhân dân
huyện Bù Đăng và Văn bản số 101/HKL- QLRVR ngày 09/10/2023 của Hạt kiểm lâm
huyện Đăng thì 03 thửa đất này đất lâm nghiệp (nằm trong tiểu khu 258) thuộc
8
lâm phần do Hạt kiểm lâm huyện Bù Đăng quản lý, đã được Ủy ban nhân dân huyện
Đăng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp 19/QSDĐ ngày 19/03/2003.
Việc các đương sự xâm canh, lấn chiếm sử dụng là bất hợp pháp. Do đó, yêu cầu chia
tài sản quyền sử dụng đối với 03 thửa đất này của chị T không căn cứ chấp nhận.
[4.2] Đối với yêu cầu chia tài sản tài sản trên thửa đất có diện tích 15.135,3m
2
,
diện tích 10.587,3m
2
: Quá trình giải quyết vụ án các bên đương sự đều thống nhất nguồn
gốc 02 thửa đất này là do T, ông Th anh Hoàng Văn H1 khai phá, sau khi anh H
kết hôn với chị T thì vợ chồng anh H sống chung với bà T nên cùng bà T quản lý, canh
tác thu hoa màu. Chị T cho rằng T đã tặng cho 02 thửa đất này cho anh H chị T
nhưng thừa nhận T chỉ nói miệng, không lập giấy tờ ng không cung cấp được tài
liệu chứng cứ nào chứng minh ngoài việc thực tế chị T và anh H trực tiếp canh tác,
thu hoạch hoa màu trên đất. Tuy nhiên, trước khi chị T kết hôn với anh H và sống cùng
bà T vào năm 2009 thì trên thửa đất có diện tích 15.135,2m
2
có trồng cây điều và mt ít
cây cà phê còn trên thửa đất có diện tích 10.587,2m
2
thì trồng cây xà cừ. Sau khi anh H
chị T cùng T thì T đầu tư trồng thêm cây phê xen với cây điều. Còn trên
thửa đất diện tích 10.587,2m
2
thì vào khoảng năm 2011 - 2012, gia đình anh H cưa
cây xà cừ để trồng cây cao su. Sau đó, cả bà T, anh H và chị T cùng canh tác, thu hoạch
hoa màu trên 02 thửa đất này cho tới khi chị T anh H xảy ra mâu thuẫn vào khoảng
cuối năm 2016. Như vậy, việc chị T, anh H trực tiếp canh tác, thu hoạch hoa màu là do
anh H và chị T sống chung với T nên phụ T canh tác, thu hoạch hoa màu. Điều
này thể hiện việc hoa lợi thu được trên đất đều giao cho bà T quảnvà lo mọi chi tiêu
trong cuộc sống hằng ngày của gia đình và bỏ chi phí đầu tư, chăm sóc trên đất. Do đó,
việc chị T cho rằng quyền sử dụng đất này là tài sản chung của chị T và anh H đã được
T tặng cho không sở. Chỉ căn cứ xác định chị T người công sức trong
việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản là cây trồng trên đất bao gồm điều, tiêu và
cao su trên thửa đất có diện tích 15.135,3m
2
và 10.587,3m
2
.
[4.3] Sau khi ly hôn với chị T theo Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn
sự thỏa thuận của các đương sự số 02/2017/QĐST-HNGĐ ngày 05/01/2017 thi vào
năm 2018, anh H kết hôn với chị Nguyễn Thị H cùng chị H, T tiếp tục đầu tư,
canh tác, thu hoạch hoa màu trên trên thửa đất có diện tích 15.135,3m
2
thửa đất
diện tích 10.587,3m
2
để phát triển, duy trì tài sản trên đất như hiện nay. Như vậy, c anh
H ch T, ch H đều góp công sc vào vic to lp, duy trì, phát trin khi tài sn
chung cũng như vào đi sng chung của gia đình. Do đó, vic phân chia tài sn trong
trường hp này cn vn dụng quy đnh ti khoản 1, Điều 61 Luật hôn nhân gia đình năm
2014Chia tài sản trong trường hp v chng sng chung vi gia đình” phù hp.
Như vậy, tài sản trên đất được chia cho 04 người bao gm T, anh H, ch T và ch H.
Tài sn y là do bà T b tin ra trồng và đầu tư, ch T là người trc tiếp trng và chăm
sóc t năm 2009 cho đến năm 2016; ch H là người đầu tư, chăm sóc từ năm 2018 cho
đến nay; anh H người trc tiếp trồng, chăm sóc từ khi sng chung vi T cho đến
nay nên anh H và bà T đưc chia 2 phn gtr tài sn. Ch H ch T thi gian chăm
sóc, canh tác trên đất tương đương nhau nên mỗi người được chia 1 phn giá tr tài sn.
Tng giá tr tài sản được xác đnh 06 phn. Do anh H không yêu cu chia các tài
sn này; ch H yêu cu chia công sức đóng góp nhưng ch H đã được Tòa án ra Thông
báo v vic nộp đơn yêu đc lập nhưng ch H không np nên xem như ch H đã từ b
yêu cu ca mình; bà T đã chết, các con ca T ng không yêu cu xem xét chia tài
sản này. Do đó, chỉ xác định phn giá tr tài sn ca ch T được hưởng để chia cho ch T
là phù hp.
9
[4.4] Theo kết qu xem xét thẩm định ti ch ngày 16/4/2024 ca Tòa án nhân
dân huyện Đăng thì hiện nay tài sn trên 02 thửa đt này gm có: 24 cây phê trng
năm 2008, 184 cây tiêu trồng năm 2015, 102 cây điều trồng năm 1998 và 550 cây cao
su trồng năm 2011. Theo kết qu định giá ca hội đồng định giá huyện Bù Đăng thì tt
c các loi cây trng này có giá tr 411.212.000 đồng. Ch T đưc chia 1/6 giá tr tài
sn nên được ng s tin 68.535.333 đồng.
Mc dù, anh H đã giao đất cho anh Hoàng Văn H1 qun nhưng thc tế người
đang trực tiếp canh tác, thu hoạch hoa màu trên đất là anh Hoàng Văn H. Tuy nhiên đất
này thuc qun ca Ht kim lâm huyện Bù Đăng nên ch tm giao cho anh H qun
lý, chăm sóc thu hoạch hoa màu trên 02 tha đất nêu trên cho đến khi quan nhà nước
quyết định gii quyết. Do đó anh H phi nghĩa vụ hoàn tr cho ch T s tin
68.535.333 đồng.
[4.5] Đối với tài sản trên thửa đất diện tích 3.141,9m
2
,
mặc theo lời trình
bày của anh H chị T thì nguồn gốc thửa đất này nhận chuyển nhượng của vợ chồng
anh Phùng Ngọc Tường, chị Trần Thị O trong thời kỳ hôn nhân nhưng người trực tiếp
giao dịch, tên vào giấy sang nhượng anh H; chị T cho rằng trong số tiền nhận
chuyển nhượng 150.000.000 đồng thì có 43.000.000 đồng là khoản tiền chung của anh
H, chị T 37.000.000 đồng tiền chuyển nhượng khoảng 1.000m
2
trong diện tích đất
3.141,9m
2
cho anh Nguyễn Văn Đ. Tuy nhiên, chị T không cung cấp được chứng cứ
chứng minh trong số tiền nhận chuyển nhượng có 43.000.000 đồng là tài sản chung của
chị T anh H. Còn theo lời trình bày của anh Nguyễn Văn Đ thì khi anh Đ nhận chuyển
nhượng 1.000m
2
vào năm 2017 (thời điểm anh H chị T đã ly hôn) thì gặp anh H
chị T nhưng người ký giấy sang nhượng và nhận tiền là anh H. Như vậy, người giao
dịch nhận chuyển nhượng trả tiền nhận chuyển nhượng đất anh H. Chị T thừa nhận
sau nhận chuyển nhượng thửa đất này thì chị T không quản lý, canh tác trên thửa đất
này. Do đó, căn cứ xác định tài sản trên thửa đất này tài sản riêng của anh H n
yêu cầu khởi kiện của chị T chia tài sản trên thửa đất này không được chấp nhận.
[5] Về khoản nợ chung: Tại phiên tòa, anh Hoàng Văn H xin rút một phần yêu
cầu phản tố đối với khoản nợ 50.000.000 đồng của Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển
Nông thôn Việt Nam - Phòng giao dịch Thống Nhất; khoản nNgân hàng chính sách
Việt Nam- chi nhánh tỉnh Bình Phước - Phòng giao dịch Bù Đăng 26.000.000 đồng và
khoản nợ hội người cao tuổi của Thôn 3, Phước Sơn là 5.000.000 đồng. Do đó, cần
đình chỉ xét xử đối với yêu cầu phản tố của anh H về những khoản nợ này.
Đối với số tiền vay vốn Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chi nhánh huyện Bù
Đăng - Phòng giao dịch Đăng số tiền 150.000.000 đồng, anh H chị T đều thừa
nhận trong thời kỳ hôn nhân anh H chị T cùng vay Ngân số tiền này. Tuy nhiên
chị T cho rằng việc vay tiền là để đầu chăm sóc cây trồng và chi tiêu trong gia đình
nên cả T và anh H phải cùng có trách nhiệm cùng chị T trả khoản nợ này. Do đó, chị
T chỉ đồng ý trả 1/3 khoản nợ tương đương số tiền 50.000.000 đồng. Xét thấy theo Hợp
đồng tín dụng sANHPT5-071/2016-HĐTD/NHCT504 ngày 27/4/2016 của Ngân hàng
công thương Việt Nam chi nhánh Bình Phước- Phòng giao dịch Đăng thì người
hợp đồng tín dụng này là anh H và chị T, bà T chỉ ký hợp đồng ủy quyền cho anh H và
chị T được quyền thế chấp thửa đất số 157, tờ bản đồ số 10 tọa lạc tại thôn Phước Quang,
Phước Sơn, huyện Bù Đăng diện tích 20.648,8m
2
chứ không cùng ký hợp đồng tín
dụng để vay Ngân hàng số tiền 150.000.000đồng; hơn nữa chị T không cung cấp được
chứng cứ chứng minh T cùng sử dụng số tiền đã vay này. Do đó anh H chị T
phải người nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng công thương Việt Nam chi nhánh Bình
10
Phước- Phòng giao dịch Bù Đăng. Vào ngày 28/4/2017, một mình anh H đã trả số tiền
này cho Ngân hàng, do đó chị T phải nghĩa vụ hoàn trả cho anh H ½ khoản nợ này
tương đương số tiền 75.000.000 đồng.
Sau khi đối trừ nghĩa vụ trả tiền thì chị T phải trả cho anh H số tiền 6.464.666
đồng.
[6] Án phí dân sự sơ thẩm:
Án phí thay đổi người trực tiếp nuôi con: Chị Đặng Thị T phải chịu 300.000 đồng.
Án phí dân s sơ thẩm v chia tài sn chung: Ch Đng Th T phi chịu án pđối
vi tài sn đưc nhn 68.535.333 đồng, tương đương số tiền 3.426.766 đồng.
Án phí dân sự thẩm vnghĩa vụ về tài sản: Chị Đặng Thị T phải chịu án phí
đối với số tiền nghĩa vụ trả cho anh H 75.000.000 đồng, tương đương số tiền
3.750.000 đồng. Tổng số tiền án phí chị T phải chịu là 7.476.766 đồng. Được khấu trừ
số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp là 3.425.000 đồng theo Biên lai thu số 015655 ngày
07/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng. Chị T phải nộp tiếp số tiền
3.751.766 đồng.
Anh Hoàng Văn H không phải chịu. Hoàn trả cho anh H số tiền tạm ứng án phí
đã nộp 2.887.500 đồng theo Biên lai thu số 0009078 ngày 22/3/2024 của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Bù Đăng.
[7] Chi phí đo đạc là 14.000.000 đồng xem xét, thẩm định tại chỗ tài sản tranh
chấp là 3.000.000 đồng; tổng là 17.000.000 đồng chị T phải chịu.
[8] Quan điểm của Đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định
của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; Điều 244; Điều
266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng các điều 59, 61, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình.
Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quyền nuôi con: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị T về việc
thay đổi người trực tiếp nuôi con; giao cháu Nguyễn Thanh H, sinh ngày 10/3/2010 cho
chị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu H đủ 18
tuổi;
Người không trực tiếp nuôi con quyền, nghĩa vụ thăm nom con không ai
được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom, cản trở
hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm c, nuôi dưỡng, giáo dục con thì
người trực tiếp nuôi con quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của
người đó. Các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp
luật.
2. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Chị T không yêu cầu nên không xem xét.
3. Về tài sản chung:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị T về việc yêu cầu chia tài
sản quyền sử dụng đất đối với 03 thửa đất diện tích 15.135,3m
2
, 10.587,3m
2
3.141,9m
2
tọa lạc tại Thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Bình Phước.
11
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đặng Thị T về việc yêu
cầu chia tài sản trên thửa đất có diện tích 3.141,9m
2
tọa lạc tại Thôn A, B, huyện C,
tỉnh Bình Phước.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Đặng Thị T về việc yêu
cầu chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn đối với thửa đất diện tích
15.135,3m
2
10.587,3m
2
.
Anh Hoàng Văn H nghĩa vụ hoàn trả cho chị Đặng Thị T phần tài sản giá
trị 68.535.333 đồng (Sáu mươi tám triệu năm trăm ba mươi lăm nghìn ba trăm ba mươi
ba đồng).
4. Về nợ chung:
Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu phản tố của anh Hoàng Văn H đối với khoản
nợ 50.000.000 đồng của Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Việt Nam -
Phòng giao dịch Thống Nhất; khoản nợ 26.000.000 đồng của Ngân hàng chính sách Việt
Nam- chi nhánh tỉnh Bình Phước- phòng giao dịch Đăng khoản nợ 5.000.000
đồng của Hội người cao tuổi của Thôn 3, xã Phước Sơn.
Buộc chị Đặng Thị T nghĩa vụ trả cho anh Hoàng Văn H stiền 75.000.000
đồng nợ Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chi nhánh huyện Đăng - Phòng giao
dịch Bù Đăng.
Sau khi đối trừ nghĩa vụ thì chị T phải hoàn trả cho anh H số tiền 6.464.666 đồng
(Sáu triệu bốn trăm sáu mươi bốn nghìn, sáu trăm sáu mươi sáu đồng).
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Án phí thay đổi người trực tiếp nuôi con: Chị Đặng Thị T phải chịu 300.000 đồng
(Ba trăm nghìn đồng).
Án phí dân s thẩm v chia tài sn chung: Ch Đặng Th T phi chu 3.426.766
đồng (Ba triu bốn trăm hai mươi sáu nghìn, bảy trăm sáu mươi sáu đồng).
Án phí dân sự thẩm về nghĩa vụ về tài sản: Chị Đặng Thị T phải chịu 3.750.000
đồng (Ba triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng).
Tổng số tiền án phí chị T phải chịu 7.476.766 đồng (Bảy triệu bốn trăm bảy
mươi u nghìn, bảy trăm sáu mươi sáu đồng). Được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí chị
T đã nộp là 3.425.000 đồng (Ba triệu bốn trăm hai mươi lăm nghìn đồng) theo Biên lai
thu số 015655 ngày 07/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng. Chị T
phải nộp tiếp số tiền 3.751.766 đồng (Ba triệu bảy trăm năm mươi mốt nghìn, bảy trăm
sáu mươi sáu đồng).
Anh Hoàng Văn H không phải chịu, hoàn trả cho anh H số tiền tạm ứng án phí đã
nộp 2.887.500 đồng (Hai triệu m trăm tám mươi bảy nghỉn, năm trăm đồng) theo Biên
lai thu số 0009078 ngày 22/3/2024 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng.
6. Chi phí đo đạc và xem xét thẩm định tài sản tranh chấp: Chị Đặng Thị T phải
chịu là 17.000.000 đồng (Mười bảy triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 của Luật thi hành án dân sự,
12
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân
sự.
8. Quyền kháng cáo: Các đương sự mặt tại phiên tòa được quyền kháng o
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền
kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Bình Phước; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKS tỉnh Bình Phước;
- VKS huyện Bù Đăng;
- UBND xã, thị trấn;
- Đương sự;
- Chi cục THADS huyện Bù Đăng
- Lưu HS – DS.
Trương Thị Đào
13
Tải về
Bản án số 101/2024/HNGĐ-ST Bản án số 101/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 101/2024/HNGĐ-ST Bản án số 101/2024/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất