Bản án số 493/2025/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 493/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 493/2025/DS-PT ngày 13/01/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
Số hiệu: 493/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/01/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: ông N khởi kiện yêu cầu ông C phải thanh toán số tiền công còn lại theo hợp đồng là 209.600.000 đồng và tiền công xây dựng nhà phụ ngoài hợp đồng là 214.000.000 đồng. Đối với yêu cầu phản tố của ông C, ông N đồng ý trả cho ông C số tiền là 47.868.000 đồng trong đó, tiền thuế xây dựng là 35.868.000 đồng và tiền thuê trọ cho công nhân ở để xây dựng công trình là 12.000.000 đồng.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 493/2024/DS-PT
Ngày 13-12-2024
V/v tranh chấp hợp đồng thi công
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Phương Loan
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Lập
Ông Ninh Quang Thế
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thúy Nguyên, là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: ông
Phạm Văn Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số: 367/2024/TLPT-DS ngày 08 tháng 10
năm 2024, về việc “tranh chấp hợp đồng thi công”.
Do bản án dân sự thẩm số:187/2024/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 406/2024/QĐ-PT ngày 28 tháng 10
năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Phạm Trí N, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Số nhà C, đường Q, khóm D, phường E, thành phố C, tỉnh Cà
Mau.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hồ Vũ P, sinh năm 1980 (có mặt).
Địa chỉ: Nhà không số, khóm F, phường I, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Bị đơn: Ông Nguyễn Sơn C, sinh năm 1964 (có mặt).
Địa chỉ: Số nhà B, đường N, khóm E, phường E, thành phố C, tỉnh Cà Mau.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lương Văn N1 Giám đốc Công ty TNHH T (vắng măt).
Địa chỉ: Số nhà A, đường N, khóm A, phường I, thành phố C, tỉnh Cà Mau;
2. Bà Dương Ngọc H, sinh năm 1973 (có mặt).
2
Địa chỉ: Số nhà B, đường N, khóm E, phường E, thành phố C.
- Người kháng cáo: Ông Nguyễn Sơn C, là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn, ông Phạm Trí N do người đại diện theo ủy quyền là ông Hồ Vũ
P trình bày:
Vào ngày 31/12/2021, ông Phạm Trí N hợp đồng thi công xây dựng văn
phòng công chứng cho ông Nguyễn Sơn C tại thị trấn S, huyện T, tỉnh Mau.
Giá trtrong hợp đồng thi công bằng 909.600.000 đồng, thời hạn thi công 120 ngày.
Sau khi hợp đồng, công trình bắt đầu khởi công ngày 01/01/2022 đến ngày
05/3/2022 ông C yêu cầu ông N xây dựng thêm một phần nhà phụ có chiều ngang
08m, chiều dài 18,1m, tổng diện tích phát sinh là 144,8m
2
với giá tiền công
1.500.000 đồng/m
2
, với số tiền công bằng 217.200.000 đồng. Khi đo đạc thực tế,
ông N xác định đã xây dựng nhà phụ chiều ngang 7,94 m, chiều dài 18,05m, diện
tích 143,32m
2
. Ông N cho rằng phần nhà phụ các bên thỏa thuận miệng, không ghi
vào hợp đồng, khi nào xây dựng xong thì bàn giao đưa vào sử dụng, phần nhà phụ
liền kề công trình chính. Tổng stiền công trong hợp đồng và phần phát sinh ngoài
hợp đồng là 1.126.800.000 đồng. Công trình chính đã hoàn thành ngày 30/4/2022.
Riêng phần lát gạch của công trình nphụ phát sinh đến ngày 01/6/2022 mới hoàn
thành, đến ngày 02/6/2022 ông C đã nhận nhà đưa vào sử dụng nhưng ông C
không ý kiến gì về chất lượng của công trình và tiến độ thi công. Đã qua, ông C
đã thanh toán cho ông N số tiền 700.000.000 đồng, số tiền còn lại 426.800.000
đồng, ông C không trả mà đưa ra lý do thi công chậm tiến độ và công trình không
đảm bảo chất lượng. Do đó, ông N khởi kiện yêu cầu ông C phải thanh toán stiền
công còn lại theo hợp đồng 209.600.000 đồng tiền công xây dựng nhà phụ
ngoài hợp đồng là 214.000.000 đồng.
Đối với yêu cầu phản tố của ông C, ông N đồng ý trả cho ông C số tiền
47.868.000 đồng trong đó, tiền thuế xây dựng là 35.868.000 đồng và tiền thuê trọ
cho công nhân ở để xây dựng công trình là 12.000.000 đồng.
Bị đơn, ông Nguyễn Sơn C trình bày:
Ông thừa nhận hợp đồng thi công với ông Phạm TN vào ngày
31/12/2021 để ông N xây dựng cho ông C một căn nhà để mở văn phòng công
chứng Lê Thành H1 tại thị trấn S, huyện T, tỉnh Cà Mau. Khi thỏa thuận xây dựng
thì ông C thỏa thuận với ông Lương Văn N1, diện tích xây dựng sàn nền chiều
ngang 8m, chiều dài 42m diện tích 336m
2
(diện tích sàn nền được tính là diện tích
tầng hầm làm nơi đxe phía dưới tầng trệt (tầng1) và phần nhà phụ liền kề với nhà
chính tầng trệt, nhà phụ không lầu, giá tiền công xây dựng sàn nền 1.000.000
đồng/m
2
. Giá tiền công xây dựng sàn nền là 336.000.000 đồng, còn diện tích nhà
chính trệt (tầng 1) là 191m
2
, diện tích nhà tầng lầu (tầng 2) 191m
2
. Giá tiền
công xây dựng tầng 1 tầng 2 1.500.000 đồng/m
2
, diện tích xây dựng tầng 1
tầng 2 573.000.000 đồng. Tổng giá trị hợp đồng 909.600.000 đồng. Thời
gian thi công 120 ngày, ngày bắt đầu ttháng 01/2022 thời gian hoàn thành ngày
30/4/2022, nếu chậm tiến độ thì bên ông N chịu phạt 5% giá trị hợp đồng phần thi
3
công chậm. Việc thỏa thuận với ông N1 xong thì ông N1 giao cho ông N trực tiếp
hợp đồng xây dựng với ông C ông N trực tiếp thi công công trình. Trong quá
trình thi công, do ông N vi phạm về chất lượng, thẩm mỹ, mái tol bmưa thấm
nước, lát gạch tầng 1, tầng 2 không đúng qui cách thỏa thuận, tiến độ thi công
chậm. Đến ngày 08/6/2022, cầu thang, la phong, lát gạch, sơn tường, cầu vệ sinh,
đường điện, cấp thoát nước chưa xong nhưng ông N không tiếp tục thi công cho
hoàn thành bỏ giữa chừng nên ông C phải thuê người khác tiếp tục xây dựng
sửa chữa cho đến khi hoàn thành công trình. Đã qua, ông C đã thanh toán cho ông
N số tiền 700.000.000 đồng bằng hình thức trả cho ông N một phần chuyển
khoản cho ông N1 để ông N1 trả cho ông N. Phần tiền còn lại 209.600.000 đồng
theo hợp đồng ông C không trả cho ông N lý do ông C đã thuê lót gạch, sơn tường
và sửa chữa các nơi bị nứt, hỏng tróc, và tất cả các chi phí khác để hoàn thành nhà
tiền phạt do vi phạm hợp đồng 198.750.000 đồng nên ông C không đồng ý
trả cho ông N số tiền 209.600.000 đồng. Ngoài ra ông C không thừa nhận có thỏa
thuận với ông N việc xây thêm công trình nhà phụ nào khác ngoài hợp đồng như
ông N trình bày, ông C cho rằng nhà phụ này nằm chung trong hợp đồng xây
dựng được xác định là diện tích sàn nền do các bên thỏa thuận theo hợp đồng xây
dựng là 336m
2
nên ông C không đồng ý trả cho ông N 214.000.000 đồng theo yêu
cầu của ông N.
Tại phiên tòa sơ thẩm, ông C thay đổi yêu cầu, ông C yêu cầu ông N phải trả
145.443.000 đồng. Trong đó, bao gồm tiền công thợ, sửa chữa khắc phục công
trình, làm la phong, dọn vệ sinh và tiền phạt hợp đồng bằng 97.557.000 đồng. Tiền
nộp thuế xây dựng ông C nộp thay cho ông N là 35.868.000 đồng và tiền thuê trọ
cho công nhân ở ông C trả thay cho ông N là 12.000.000 đồng.
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan, Dương Ngọc H vợ ông
Nguyễn Sơn C thống nhất với yêu cầu của ông Nguyễn Sơn C.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, ông Lương Văn N1 đã được Tòa
án tống đạt hợp lệ nhưng không có mặt và không có ý kiến.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 187/2024/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau đã quyết định:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Trí N.
Buộc ông Nguyễn n C Dương Ngọc H thanh toán số tiền cho ông
Phạm Trí N bằng 305.052.000 đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Trí N số tiền bằng 73.880.000 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu của ông Nguyễn Sơn C.
Buộc ông Phạm TN thanh toán cho ông Nguyễn Sơn C Dương Ngọc
H số tiền bằng 97.575.000 đồng.
Buộc ông Nguyễn Sơn C và Dương Ngọc H hoàn lại cho ông Phạm Trí
N chi phí đo đạc bằng 10.505.000 đồng.
Buộc ông Phạm Trí N hoàn lại cho Nguyễn Sơn C và bà Dương Ngọc H số
tiền chi phí kiểm định bằng 35.442.000 đồng.
4
Ngoài ra, án thẩm n tuyên về án phí, chi phí tố tụng quyền kháng
cáo.
Ngày 31 tháng 7 năm 2024, ông Nguyễn Sơn C kháng cáo bản án thẩm.
Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét và không chấp nhận yêu cầu của ông N về
việc buộc ông C phải trả số tiền 305.000.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Sơn C thay đổi một phần yêu cầu kháng
cáo, ông C yêu cầu ông N trả cho ông chi phí sửa chữa, khắc phục công trình, phạt
hợp đồng tiền nộp thuế xây dựng, tiền thuê trọ cho công nhân với tổng số tiền
145.443.000 đồng, theo biên bản làm việc tại Tòa án ngày 28 tháng 11 năm 2024.
Ông C tranh luận cho rằng, ông N xác định nhà phụ chiều ngang 8m, chiều dài
18,1m, diện tích 144,8m
2
phần nhà phụ do ông N xây dựng thêm ngoài hợp đồng,
phần diện tích này chính là một phần trong diện tích xây dựng phần “sàn nền” đã
được thỏa thuận trong hợp đồng ngày 31/12/2021, có diện tích chung là 336m
2
đã
được ông N1 ông C thống nhất về giá thi công 1.000.000đ/m
2
, thành tiền
336.000.000 đồng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Mau tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm: Về thủ tục tố tụng, việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá
trình giải quyết vụ án của Hội đồng xét xử những người tiến hành ttụng, người
tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Về nội dung vụ án, đề nghị
Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, chấp nhận
yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Sơn C. Sửa bản án dân sự thẩm số:
187/2024/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố
Mau.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Kháng cáo của ông Nguyễn Sơn C được thực hiện trong hạn luật định và
hợp lệ nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Sơn C, Hội đồng xét xử xét thấy: Ông C
ông N đều thừa nhận theo hợp đồng thi công xây dựng phòng C1 ngày
31/12/2021 tại thị trấn S, huyện T, tỉnh Mau thể hiện ông N hợp đồng xây
dựng công trình cho ông C được tính khi xây dựng hoàn thiện công trình đưa vào
sử dụng thì tiền công xây dựng ông C phải trả cho ông N được tính như sau: Diện
tích xây dựng sàn nền chiều ngang 8 m, chiều dài 42 m, diện tích 336m
2
giá
1.000.000 đồng/m
2
, bằng tiền 336.000.000 đồng, diện tích xây dựng tầng trệt
(tầng 1) là 191m
2
diện tích xây dựng tầng lầu (tầng 2) 191m
2
giá 1.500.000
đồng/m
2
. Giá tiền công tầng 1tầng 2 bằng 573.000.000 đồng. Tổng giá trị tiền
công xây dựng công trình theo hợp đồng là 909.600.000 đồng. Thời gian thi công
120 ngày thời gian bắt đầu thi công tháng 01/2022 đến ngày 30/4/2022
hoàn thành. Ông N thừa nhận trong quá trình thi công, ông C đã trả cho ông N
được 700.000.000 đồng được ông C thống nhất. Số tiền còn lại 209.600.000 đồng
ông C thừa nhận chưa trả cho ông N.
[3] Xét yêu cầu phản tố của ông C yêu cầu ông N trả 145.443.000 đồng Hội
đồng xét xử xét thấy: Ông C cho rằng ông N thực hiện công trình chậm tiến độ,
5
không hoàn thành xong công trình mà bỏ dỡ không hoàn thành phần việc, vi phạm
hợp đồng, vi phạm thẩm mỹ, thấm dột tường nên ông C phải thuê người khác sửa
chữa khắc phục, do đó ông C yêu cầu ông N phải trả tổng số tiền 145.443.000
đồng (Trong đó tiền khắc phục sửa chữa công trình phạt hợp đồng 97.557.000
đồng, tiền ông C nộp thuế xây dựng thay ông N, tiền thuê nhà trọ cho công nhân ở
trong thời gian xây dựng công trình là 47.868.000 đồng).
Đối với số tiền ông C đã khắc phục sửa chữa công trình và phạt hợp đồng
97.557.000 đồng. Bao gồm các khoản tiền ông C thuê thợ lắp đặt, sửa chữa, khắc
phục để hoàn thiện hệ thống cấp nước, khắc phục nơi bdột, thấm nước tầng 1
và tầng 2, khu vực nhà vệ sinh, cầu thang xuống tầng hầm và trên mái nhà tầng 2
với số tiền chi phí sửa chữa, khắc phục lần 1 là 5.950.000 đồng, chi phí sửa chữa,
khắc phục lần 2 6.500.000 đồng, tiền thuê thợ 2 lần thực hiện việc sửa chữa,
khắc phục thấm, ngập nước trong phòng bảo vệ tầng hầm, xây, sửa chữa, hoàn
thiện các hố ga xử nước thải, lắp đặt ống thoát nước do bên thi công làm dở dang
với chi phí lắp đặt, xây dựng, sửa chữa lần 1 là 2.100.000 đồng, chi phí sửa chữa,
khắc phục, hoàn thiện lần 2 là 1.500.000 đồng, tiền thuê thợ làm mái che tầng 1 là
6.000.000 đồng. Tiền thiệt hại do ông N không làm bỏ 3m
3
khối bê tông tươi
hư hỏng là 5.100.000 đồng, tiền vật tư do ông N làm thất thoát cát, gạch, xi măng
do công trình bị bỏ dở dang không thi công là 14.000.000 đồng, tiền làm lại trần la
phong là 16.000.000 đồng, tiền công thợ làm la phong 15.880.000 đồng, tiền thuê
dọn dẹp vệ sinh công trình 20.000.000 đồng, tiền phạt do vi phạm hợp đồng
4.545.000 đồng.
Hội đồng xét xử xét thấy, theo báo cáo kết quả kiểm định chất lượng công
trình xây dựng ngày 25/01/2024, kết quả đã xác định nhà thầu thi công chưa đạt
yêu cầu vthẩm mỹ, tiêu chuẩn trong công tác nghiệm thu công trình xây dựng, cụ
thể nhiều hạng mục công trình không đạt theo hợp đồng xây dựng như: chưa
đảm bảo độ bằng phẳng của tường các trục; không bảo đảm tính thẩm mỹ công
trình; ốp đá bậc tam cấp và lót gạch nhà vệ sinh có độ dốc ngược; không đảm bảo
thoát nước theo bản vẽ xin phép xây dựng được pduyệt; trần thạch cao bị sụp,
thấm ẩm, hư hỏng trần... Do đó, ông C đã phải thuê người sửa chữa, khắc phục lại
công trình và yêu cầu ông N phải trả các chi phí sửa chữa, khắc phục cùng khoản
tiền phạt hợp đồng, với tổng số tiền 97.557.000 đồng. Số tiền này tại Bản án
thẩm đã chấp nhận yêu cầu của ông C, buộc ông N trả cho ông C 97.557.000 đồng.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ông N không đồng ý nhưng do ông N kháng cáo quá hạn.
Theo Quyết định số 20/2024/QĐ-PT ngày 22/8/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn của ông N. Do đó, nội dung Quyết
định Bản án sơ thẩm buộc ông N trả cho ông C 97.575.000 đồng đã có hiệu lực thi
hành. Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
Đối với số tiền ông C yêu cầu ông N trả 47.868.000 đồng bao gồm: khoản
tiền ông C nộp thuế xây dựng thay cho ông N 35.868.000 đồng; tiền thuê nhà trọ
cho công nhân để xây dựng công trình ông C trả thay cho ông N 12.000.000
đồng. Số tiền này, tại phiên tòa sơ thẩm ông N đồng ý trả cho ông C, tại phiên tòa
phúc thẩm ông N cũng thống nhất trả cho ông C, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận
buộc ông N trả cho ông C 47.868.000 đồng.
6
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của ông C đối với phần diện tích xây dựng nhà phụ
diện tích 144,8m
2
ngoài hợp đồng xây dựng. Hội đồng xét xử xét thấy:
Ông N cho rằng đã xây dựng thêm nhà phụ chiều ngang 8m chiều dài 18,1m
diện tích 144,8m
2
liền kề với nhà chính ở trệt (tầng 1) là phần xây dựng ngoài hợp
đồng, được các bên thỏa thuận bằng lời nói, nhưng ông C không thừa nhận. Theo
đo đạc thực tế phần nhà phụ được xây dựng chiều ngang 7,94 m, chiều dài
18,05m diện tích 143,32m
2
nằm ngoài hồ thiết kế nhưng phần diện tích xây
dựng này nằm trong hợp đồng xây dựng được xác định ông N phải xây dựng cho
ông C diện tích “sàn nền” 336m
2
. Cụ thể: theo hợp đồng xây dựng ngày
31/12/2021 thể hiện diện tích sàn nền ông N phải xây dựng cho ông C chiều
ngang 8m chiều dài 42m diện tích 336m
2
với số tiền công 336.000.000 đồng.
Thực tế, vị trí phần diện tích nhà phụ ông N đã xây dựng chiều ngang 7,94 m, chiều
dài 18,05m, diện tích 143,32m
2
nằm liền kề với nhà chính tầng 1 nằm trong
diện tích sàn nền chiều ngang 8m chiều dài 42 m với diện tích 336m
2
. Ông N cho
rằng diện tích nhà phụ 143,32m
2
do ông N xây dựng thêm cho ông C ngoài
hợp đồng. Theo hồ thể hiện, ông N đã xây dựng cho ông C diện tích tầng hầm
để xe là 191m
2
, diện tích nhà chính ở tầng trệt (tầng 1) là 191m
2
và diện tích nhà
tầng lầu (tầng 2) là 191m
2
. Trong khi đó, diện tích nhà ở tầng 1 và tầng 2 đã được
xác định giá tiền công trong hợp đồng xây dựng 1m
2
là 1.500.000 đồng. Như vậy,
diện tích xây dựng còn lại tầng hầm để xe 191m
2
diện tích nhà phụ
143,32m
2
, ngoài ra ông N không còn xây dựng thêm cho ông C diện tích nào khác
ngoài diện tích sàn nền chiều ngang 8m chiều dài 42m toàn bộ khuôn viên nhà
của ông C. Do đó, ông C cho rằng diện tích sàn nền được tính diện tích xây dựng
ở tầng hầm để xe là 191m
2
diện tích nhà phụ là 143,32m
2
thì mới đủ tổng diện
tích xây dựng sàn nền là 336m
2
với giá tiền công là 336.000.000 được thỏa thuận
trong hợp đồng xây dựng, nên tổng giá trị hợp đồng là 909.600.000 đồng là có cơ
sở. Do đó, ông C kháng cáo không thừa nhận đã thuê ông N xây dựng thêm phần
nhà phụ khác, có diện tích là 143,32m
2
ngoài hợp đồng xây dựng là có căn cứ nên
được hội đồng xét xử chấp nhận. Vì vậy, không chấp nhận yêu cầu của ông N yêu
cầu ông C trả tiền công xây dựng phát sinh ngoài hợp đồng diện tích 143,32m
2
với
số tiền 214.000.000 đồng.
[5] Theo hợp đồng xây dựng do ông C ông N giao kết g trị
909.600.000 đồng. Ông C đã trả cho ông N 700.000.000 đồng, nên buộc ông C
phải trả cho ông N 209.600.000 đồng là phù hợp.
Đối với ông Lương Văn N1 được ông C cho rằng thỏa thuận việc xây dựng
với ông N1, nhưng khi hợp đồng xây dựng thì ông N ông C ký, ông N
người trực tiếp thực hiện việc thi công công trình nên ông C yêu cầu ông N1
trách nhiệm liên đới với ông N trong xây dựng công trình cho ông C không
cơ sở.
Đối với Dương Ngọc H, trong quá trình giải quyết vụ án ông N chỉ yêu cầu
ông C nghĩa vụ trả tiền cho ông N. Ông C yêu cầu phản tố, yêu cầu ông N
trả tiền cho ông C do ông N vi phạm hợp đồng, không có ai yêu cầu H phải chịu
trách nhiệm liên đới, H cũng không có yêu cầu gì trong vụ án nhưng Tòa án cấp
7
thẩm buộc ông C H cùng nghĩa vụ trả tiền cho ông N không đúng.
Do đó, xác định nghĩa vụ trả tiền là của ông C và ông N.
[6] Chi phí tố tụng:
Chi phí kiểm định chất lượng công trình: Do yêu cầu phản tố ca ông C được
chấp nhận nên ông N phải chịu chi phí kiểm định chất lượng công trình
35.442.000 đồng. Ông C đã nộp xong số tiền này nên cần buộc ông N trả lại cho
ông C.
Chi phí đo đạc, do ông N yêu cầu ông C thanh toán tiền xây dựng nhà phụ
diện tích theo đo đạc là 143,32m
2
không được chấp nhận nên ông N phải chịu chi
phí đo đạc với số tiền 10.505.000 đồng.
[7] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là phù hợp
nên được chấp nhận.
[8] Án phí dân sự sơ thẩm: Ông N phải nộp án pcó gngạch đối với khoản
tiền ông N yêu cầu không được chấp nhận. Ông C người cao tuổi đơn xin
miễn án phí được hội đồng xét xử chấp nhận.
[9] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Sơn C không phải chịu.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309 của Bộ luật tố tụng dân sự; Ngh quyết
số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc Hội quy
định về án phí, lệ phí Toà án;
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Sơn C.
Sửa bản án dân sự thẩm số:187/2024/DS-ST ngày 22 tháng 7 năm 2024
của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Trí N.
Buộc ông Nguyễn Sơn C phải trả cho ông Phạm TN số tiền 209.600.000
đồng.
Không chấp nhận yêu cầu của ông Phạm Trí N yêu cầu ông Nguyễn Sơn C
phải trả số tiền xây dựng công trình nhà phụ là 214.000.000 đồng.
2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Sơn C.
8
Buộc ông Phạm Trí N phải trả cho ông Nguyễn Sơn C số tiền lắp đặt, sửa
chữa, khắc phục công trình và tiền phạt vi phạm hợp đồng là 97.575.000 đồng.
Buộc ông Phạm Trí N phải trả cho ông Nguyễn Sơn C số tiền thuế xây dựng
và tiền thuê trọ cho công nhân là 47.868.000 đồng.
3. Chi phí tố tụng:
Buộc ông Phạm Trí N trả lại cho Nguyễn Sơn C chi phí kiểm định chất lượng
công trình với số tiền 35.442.000 đồng.
Ông Phạm Trí N phải chịu chi phí đo đạc là 10.505.000 đồng. Ông N đã nộp
xong.
Kể từ ngày đương sự có đơn yêu cầu thi hành án, nếu đương sự nghĩa vụ
không tự nguyện thi hành xong thì còn phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức
lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân snăm 2015 tương ứng
với số tiền và thời gian chậm thi hành.
4. Án phí dân sự sơ thẩm có giá nghạch:
- Ông Phạm Trí N phải nộp stiền 17.972.000 đồng. Được đối trừ vào số tiền
10.536.000 đồng ông N đã dự nộp ngày 10/10/2022, biên lai số 0002118. Ông N
phải nộp tiếp 10.536.000 đồng.
- Ông Nguyễn Sơn C được miễn nộp án phí. Ông C được nhận lại số tiền
1.594.000 đồng đã dự nộp ngày 28/11/2022, biên lai số 0002528 6.219.000 đồng
đã dự nộp ngày 15/11/2022, biên lai số 0002474.
5. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Sơn C không phải chịu. Ông C
được nhận lại 300.000 đồng đã dự nộp vào ngày 06/8/2024, biên lai số 0009175.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Các quyết định khác không kháng cáo, kháng nghị hiệu lực pháp luật
kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau;
- Chi cục THADS thành phố Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
9
Bùi Thị Phương Loan
Tải về
Bản án số 493/2025/DS-PT Bản án số 493/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 493/2025/DS-PT Bản án số 493/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất