Bản án số 362/2025/DS-PT ngày 16/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 362/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 362/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 362/2025/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 362/2025/DS-PT ngày 16/06/2025 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Tiền Giang |
Số hiệu: | 362/2025/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/06/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH TIỀN GIANG
Bản án số: 362/2025/DS-PT
Ngày: 16-6-2025
V/v tranh chấp Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANHNƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thanh Triều
Các Thẩm phán: Bà Nguyễn Thị Diệp Thuý
Ông Nguyễn Ngọc Thái Dũng
- Thư ký phiên tòa: Bà Dương Thị Hà Vy - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Tiền Giang.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa:
Ông Dương Thanh Quang - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 153/2025/TLPT-DS ngày 08 tháng 4
năm 2025 về tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 103/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 851/2025/QĐ-PT ngày
14 tháng 4 năm 2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Dương Thị S (1950-2022).
Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Dương Thị S:
1/ Bà Mai Thị Hồng T, sinh năm 1989. (Có mặt)
Địa chỉ: Số A T, phường F, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà T: Bà Lê Thị Hồng T1, sinh năm
1983. (Có mặt)
Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, Tiền Giang.
2/ Bà Ngô Thị Ngọc H, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Số A, N, phường G, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của bà H: Bà Mai Thị Hồng T, sinh năm
1989. (Có mặt)
Địa chỉ: Số A T, phường F, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
- Bị đơn: Ông Dương Văn Ú, sinh năm 1968.
Địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
Người đại diện theo ủy quyền của ông Ú: Ông Trần Văn T2, sinh năm
1965. (Có mặt)
Địa chỉ: Số A, ấp M, xã M, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Dương Văn S1, sinh năm 1951. (xin vắng mặt)
2/ Bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1958. (xin vắng mặt)
Cùng địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
3/ Bà Dương Thị Đ, sinh năm 1957. (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Số E hẻm C T, phường T, Quận G, thành phố Hồ Chí Minh.
4/ Bà Dương Thị T3, sinh năm 1958.
Địa chỉ: Ấp E, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang.
5/ Ông Dương Văn L, sinh năm 1959. (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
6/ Ông Dương Bá T4, sinh năm 1964. (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Số A ô A, khu B, thị trấn C, huyện C, tỉnh Tiền Giang.
7/ Ông Dương Bá Đ1, sinh năm 1966. (xin vắng mặt)
Địa chỉ: Ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang.
- Người kháng cáo: Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà S là
Mai Thị Hồng T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo án sơ thẩm;
* Bà Mai Thị Hồng T là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà
Dương Thị S và là người đại diện theo ủy quyền của bà Ngô Thị Ngọc H trình bày:
Cha của bà Dương Thị S là cụ Dương Văn B chết năm 1996, mẹ của bà Dương Thị
S là cụ Phạm Thị N chết năm 2014. Cụ Dương Văn B và cụ Phạm Thị N có tất cả
10 người con:
+ Ông Dương Văn Á (đã chết trước năm 1975), có vợ tên Trần Thị M1 hiện ở
Ấp B, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang và có 02 người con là Dương Thị P (đã chết)
và Dương Văn H1 (đã chết).
+ Ông Dương Văn K (đã chết trước năm 1975, không có vợ, con);
+ Bà Dương Thị S (chết tháng 10/2022);
+ Ông Dương Văn S1;
+ Bà Dương Thị T3;
+ Bà Dương Thị Đ;
+ Ông Dương Văn L;
+ Ông Dương Bá T4;
+ Ông Dương Bá Đ1;
+ Ông Dương Văn Ú.
Trong thời gian chung sống, cụ Dương Văn B và cụ Phạm Thị N có tạo lập
được căn nhà cấp 4 cất trên phần đất vườn có diện tích 2.000m
2
do cụ Phạm Thị N
đứng tên quyền sử dụng đất. Vào ngày 08/9/2004, cụ Phạm Thị N chuyển nhượng
cho bà Dương Thị S phần đất có diện tích khoảng 13m x 50m với giá 20.000.000
đồng, bà Dương Thị S chưa nhận đất. Phần đất chuyển nhượng thuộc một phần
thửa đất số 305 (nay là thửa 334) diện tích 3.458m
2
mục đích sử dụng V-T tại ấp D
xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số vào
sổ cấp giấy số 00432QSDĐ/386/QĐUB ngày 25/5/1998 do Ủy ban nhân dân
huyện T cấp cho hộ cụ Phạm Thị N đại diện hộ gia đình đứng tên chủ quyền.
Việc chuyển nhượng đất có đơn nhượng đất vườn ngày 08/9/2004 có cụ Phạm
Thị N ký tên và có người viết hộ là ông Dương Văn S1 ký tên.
Khi cụ Phạm Thị N còn sống thì giữa cụ Phạm Thị N và bà Dương Thị S có
mâu thuẫn nên cụ Phạm Thị N không chuyển nhượng đất cho bà Dương thị S mà
để thừa kế lại cho ông Dương Bá T4 và ông Dương Văn Ú. Phần đất tranh chấp
hiện nay thuộc phần đất cụ Phạm Thị N để thừa kế cho ông Dương Bá T4 nhưng
ông Dương Văn Ú quản lý sử dụng và hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có
số vào sổ 00432QSDĐ/386/QĐUB do ông Dương Văn Ú giữ. Sau khi cụ Phạm
Thị N chết, bà Dương Thị S có yêu cầu ông Dương Văn Ú đưa giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của cụ Phạm Thị N để tách thửa nhưng ông Dương Văn Ú
không đồng ý. Hiện tại bản chính của đơn nhượng đất vườn ngày 08/9/2004 đã bị
mất nên không thể nộp cho Tòa án.
Nay bà Mai Thị Hồng T là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà
Dương Thị S và là người đại diện theo ủy quyền của bà Ngô Thị Ngọc H yêu cầu
ông Dương Văn Ú tách thửa phần đất có chiều ngang phía trước 06m, chiều ngang
phía sau 06m, chiều dài 45,89m
2
(giáp thửa đất số 3342) thuộc thửa số 3343, tờ
bản đồ số 02, diện tích 725,4m
2
tại ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Tiền Giang cho
nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên
đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H). Trường hợp
ông Dương Văn Ú không đồng ý sang tên phần đất trên cho nguyên đơn bà Dương
Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S
là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H) thì ông Dương Văn Ú phải trả lại
cho nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
nguyên đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H) số tiền
700.000.000 đồng.
- Bà Ngô Thị Ngọc H là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà
Dương Thị S trình bày: Ngày 08/9/2004, bà H chở bà Dương Thị S đến nhà cụ
Phạm Thị N thỏa thuận chuyển nhượng phần đất cụ Phạm Thị N đang sinh sống và
đứng sở hữu với diện tích là ngang 13m, chiều dài từ lộ đất (hiện tại là đường
Huyện 50 nhựa) đến phần giáp ranh hộ bà Phan Thị T5 với số tiền 20.000.000
đồng theo yêu cầu của cụ Phạm Thị N. Có ông Dương Văn S1, ông Dương Bá Đ1,
bà Dương Thị S và bà Ngô Thị Ngọc H chứng kiến việc giao dịch đất này, ông
Dương Văn Ú có mặt tại nhà nhưng không chứng kiến. Bà Dương Thị S đã nói
“Sau này, ông Dương Văn Ú hoặc người trong gia đình có tiền và có nhu cầu mua
lại, bà Dương Thị S sẽ nhượng lại theo thời điểm lúc đó trên tình cảm gia đình”.
- Cụ Phạm Thị N và bà Dương Thị S thống nhất với nhau, ông Dương Văn S1
với tư cách là người làm chứng và viết hộ “Đơn nhượng đất vườn”. Cụ Phạm Thị
N và ông Dương Văn S1 đã xác nhận đủ số tiền trên và ký tên và đơn nhượng đất
vườn.
* Ông Trần Văn T2 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Dương
Văn Ú trình bày: Ông Dương Văn Ú là con của cụ Phạm Thị N. Vào ngày
03/01/2013 anh em ông Dương Văn Ú gồm có: Ông Dương Bá T4 và ông Dương
Văn Ú được cụ Phạm Thị N lập di chúc tặng cho quyền sử dụng đất được Ủy ban
nhân dân xã T xác nhận ngày 28/01/2013. Trong tờ di chúc cụ Phạm Thị N không
có đề cập và nêu nội dung nào để làm thủ tục chuyển cho bà Dương Thị S và đồng
thời gia đình anh chị em ông Dương Văn Ú chưa bao giờ nhìn thấy giấy viết
chuyển nhượng đất vườn với giá 20.000.000 đồng được lập ngày 08/9/2004, nội
dung tờ giấy viết chuyển nhượng cho bà Dương Thị S ngang 13m và dài hết đất,
cũng không biết phần đất nằm ở vị trí nào, tờ bản đồ số mấy, thửa số mấy, nội
dung trên tờ giấy quá mơ hồ. Nếu cụ Phạm Thị N có bán đất cho bà Dương Thị S
thì tại sao lúc cụ Phạm Thị N còn minh mẫn, bà Dương Thị S không làm thủ tục
sang tên tách thửa theo đúng quy định của pháp luật, đồng thời từ năm 2004 đến
nay bà Dương Thị S mới yêu cầu tách thửa sang tên và Ủy ban nhân dân huyện T
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình ông Dương Văn Ú, việc
mua bán cho bà Dương Thị S các thành viên trong hộ gia đình ông Dương Văn Ú
tại sao không biết, chứng tỏ việc này hoàn toàn là không có thật. Đồng thời cũng
không phải chữ viết Phạm Thị N và chữ ký N là của cụ Phạm Thị N. Do vậy, bà
Dương Thị S yêu cầu ông Dương Văn Ú tách thửa đất mà ông Dương Văn Ú được
hưởng theo di chúc cho bà Dương Thị S là không đúng sự thật. Còn vấn đề
20.000.000 đồng lúc này bà Dương Thị S là chị ruột của ông Dương Văn Ú có bán
phần diện tích đất mà trước đây cụ Phạm Thị N đã cho nên có được số tiền lớn, bà
Dương Thị S có cho cụ Phạm Thị N 20.000.000 đồng là đúng sự thật, chứ không
có liên quan vấn đề gì việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất với giá 20.000.000
đồng và ông Dương Văn Ú cũng không biết từ đâu mà bà Dương Thị S có được tờ
giấy chuyển nhượng đất để cung cấp cho Tòa án.
Nay ông Dương Văn Ú không đồng ý theo yêu cầu của nguyên đơn bà Dương
Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S
là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H). Ông Dương Văn Ú tự nguyện hoàn
trả cho nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
nguyên đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H) số tiền
bà Dương Thị S đã cho cụ Phạm Thị N là 20.000.000 đồng và 80.000.000 đồng
tiền lãi. Tổng cộng là 100.000.000 đồng.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Dương Văn S1 trình bày: Cụ Dương Văn B và cụ Phạm Thị N có tất cả
10 người con như nguyên đơn trình bày. Đơn nhượng đất vườn ngày 08/9/2004 do
ông Dương Văn S1 viết hộ và ký tên ở mục người viết hộ nhưng không có ghi
dòng: “Số diện tích đất ngan 13m, chiều dài từ lộ đất giáp với hộ bà Phan Thị T5,
người nhận tiền, Phạm Thị N” và cụ Phạm Thị N không có ký tên, chữ ký ở mục
người nhận tiền không phải của cụ Phạm Thị N.
Cụ Phạm Thị N có nhận của bà Dương Thị S 20.000.000 đồng nhưng không
phải là tiền chuyển nhượng đất mà là bà Dương Thị S bán phần đất khác có tiền
nên cho cụ Phạm Thị N 20.000.000 đồng nên ông Dương Văn S1 mới viết hộ đơn
nhượng đất vườn ngày 08/9/2004 để bà Dương Thị S làm tin với chồng của bà
Dương Thị S. Nay trong vụ kiện này, ông Dương Văn S1 không có tranh chấp gì.
- Ông Dương Bá T4 trình bày: Cụ Dương Văn B và cụ Phạm Thị N có tất cả
10 người con như nguyên đơn trình bày.
Việc cụ Phạm Thị N có chuyển nhượng đất cho bà Dương Thị S hay nhận của
bà Dương Thị S 20.000.000 đồng thì ông Dương Bá T4 không biết.
Thửa đất số 305 cụ Phạm Thị N chia cho ông Dương Bá T4 300m
2
là phần
đất bà Dương Thị S đang tranh chấp, phần còn lại 1.952m
2
cụ Phạm Thị N chia
cho ông Dương Văn Ú. Phần đất ông Dương Bá T4 được chia ông Dương Bá T4
có cất nhà ở trên đó và hiện nay đã bị hư hại không còn.
Nay trong vụ kiện này, ông Dương Văn S1 không có tranh chấp gì.
- Ông Dương Bá Đ1 trình bày: Ngày 08/9/2004 bà Dương Thị S đến nhà cụ
Phạm Thị Nguyệt T6 thuận mua lại phần đất của cụ Dương Văn B và nhờ ông
Dương Văn S1 viết giấy chuyển nhượng đưa bà Dương Thị S, cụ Phạm Thị N đọc
và ký tên. Sau đó bà Dương Thị S đưa 20.000.000 đồng cho cụ Phạm Thị N tương
ứng với 5 cây vàng thời điểm đó. Bà Dương Thị S nói sau này cụ Phạm Thị N có
tiền muốn chuộc hay trong nhà đứa nào muốn chuộc bà Dương Thị S sẽ cho chuộc
với giá thỏa thuận.
Tại Bản án sơ thẩm số 103/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024 của Toà
án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang đã căn cứ: Khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản
1 Điều 35; điểm a, khoản 1 Điều 39; Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 và
khoản 3 Điều 228 và Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 705, 706, 707,
708, 709, 110, 711 của Bộ Luật Dân sự năm 1995; Điều 3 Điều 73 và Điều 75 Luật
đất đai năm 1993; Điều 357 và 468 của Bộ Luật Dân sự 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thị S
(Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S là bà
Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H) đối với ông Dương Văn Ú về việc yêu
cầu ông Dương Văn Ú tách thửa phần đất có chiều ngang phía trước 06m, chiều
ngang phía sau 06m, chiều dài 45,89m
2
(giáp thửa đất số 3342) thuộc thửa số
3343, tờ bản đồ số 02, diện tích 725,4m
2
tại ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Tiền
Giang để nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng
của nguyên đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H)
làm thủ tục đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường hợp ông
Dương Văn Ú không đồng ý sang tên phần đất trên thì ông Dương Văn Ú phải
trả lại cho nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị
Ngọc H) số tiền 700.000.000 đồng.
2. Ghi nhận việc ông Dương Văn Ú tự nguyện hoàn trả cho nguyên đơn bà
Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà
Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H) số tiền bà Dương
Thị S đã cho cụ Phạm Thị N là 20.000.000 đồng và 80.000.000 đồng tiền lãi.
Tổng cộng là 100.000.000 đồng. Thời gian thực hiện ngay khi án có hiệu lực
pháp luật.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ khi người được thi hành
án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa
vụ trả tiền thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo và nghĩa vụ thi hành
án của đương sự.
- Ngày 26/9/2024, người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn là Mai
Thị Hồng T có đơn kháng cáo bản án sơ thẩm của TAND huyện T, tỉnh Tiền
Giang. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm Sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp
nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị S.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Nguyên đơn bà Mai Thị Hồng T là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của bà Dương Thị S và là người đại diện theo ủy quyền của bà Ngô Thị
Ngọc H, đại diện uỷ quyền của bà T bà Lê Thị Hồng T1 vẫn giữ nguyên yêu cầu
yêu cầu khởi kiện và kháng cáo.
Bị đơn ông Trần Văn T2 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Dương Văn Ú không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà T.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ
án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký; việc chấp hành pháp luật của
người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm
Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn không có bổ sung chứng
cứ gì mới nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 không chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn giữ y án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ thể hiện tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra
tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét toàn diện các chứng cứ; ý kiến trình bày của
các đương sự; căn cứ kết quả tranh tụng và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát
tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thời hạn kháng cáo của nguyên đơn Mai Thị Hồng T là người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Dương Thị S kháng cáo còn trong thời
hạn luật định, đúng theo quy định tại các Điều 271, 272, 273 và 280 của Bộ luật
Tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” là đúng
quy định pháp luật.
[3] Về tố tụng: Nguyên đơn bà Mai Thị Hồng T là người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của bà Dương Thị S, đồng thời cũng là người đại diện theo uỷ
quyền của bà Ngô Thị Ngọc H, đại diện uỷ quyền của bà T có bà Lê Thị Hồng
T1, bị đơn ông Trần Văn T2 là người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Dương Văn Ú có mặt, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ngô Văn C,
sinh năm 1955. (chết năm 2019) người thừa kế quyền và nghĩa vụ của ông C: Bà
Nguyễn Thị M2, chị Ngô Thị H2, anh Ngô Văn H3, chị Ngô Thị H4, chị Ngô
Thị H5, chị Ngô Ngọc H6, bà Nguyễn Thị M2, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan ông Dương Văn S1, bà Nguyễn Thị M, bà Dương Thị Đ, bà Dương Thị
T3, ông Dương Văn L, ông Dương Bá T4, ông Dương Bá Đ1 tất cả đều có đơn
xin vắng mặt. Căn cứ Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến
hành xét xử vụ án.
[4] Về nội dung kháng cáo của nguyên đơn bà Lê Thị Hồng T7 vẫn giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo là yêu cầu cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi
kiện của bà, buộc ông Dương Văn Ú tách thửa phần đất có chiều ngang phía
trước 06m, chiều ngang phía sau 06m, chiều dài 45,89m
2
(giáp thửa đất số 3342)
thuộc thửa số 3343, tờ bản đồ số 02, diện tích 725,4m
2
tại ấp D, xã T, huyện T,
tỉnh Tiền Giang cho nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và
nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà
Ngô Thị Ngọc H).
[4] Xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Hội đồng xét xử thấy rằng
chứng cứ nguyên đơn đưa ra để yêu cầu khởi kiện là giấy sang nhượng đất giữa
bà Dương Thị S với cụ Phạm Thị N nội dung: “Tôi Phạm Thị N …nay tôi có
nhượng lại cho con tôi là Dương Thị S, sanh năm 1950 số diện tích đất ngang
13m, chiều dài từ lộ đất giáp với hộ bà Phạm Thị T8 số tiền là
20.000.000đồng… tôi có nhận số tiền trên”. Việc chuyển nhượng đất có biên
nhận nhượng đất vườn ngày 08/9/2004 có cụ Phạm Thị N ký tên và có người
viết hộ là ông Dương Văn S1 ký tên. Để chứng minh việc chuyển nhượng này
phía nguyên đơn cung cấp giấy nhượng đất bản photo, giấy gốc phía nguyên đơn
cho rằng đã bị thất lạc, phần đất chuyển nhượng này đang tranh chấp hiện nay bị
đơn là ông Dương Văn Ú và Dương Bá T4 (con bà N được đứng tên trên cơ sở
thừa kế theo di chúc).
Nguyên đơn cho rằng khi cụ Phạm Thị N còn sống thì giữa cụ Phạm Thị N và
bà Dương Thị S có mâu thuẫn nên cụ Phạm Thị N không chuyển nhượng đất cho
bà Dương thị S mà để thừa kế lại cho ông Dương Bá T4 và ông Dương Văn Ú.
Phần đất tranh chấp hiện nay thuộc phần đất cụ Phạm Thị N để thừa kế cho ông
Dương Bá T4 nhưng ông Dương Văn Ú quản lý sử dụng và hiện giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất có số vào sổ 00432QSDĐ/386/QĐUB do ông Dương Văn Ú
giữ. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ông Dương Văn Ú tách thửa phần đất có chiều
ngang phía trước 06m, chiều ngang phía sau 06m, chiều dài 45,89m
2
(giáp thửa đất
số 3342) thuộc thửa số 3343, tờ bản đồ số 02, diện tích 725,4m
2
tại ấp D, xã T,
huyện T, tỉnh Tiền Giang cho nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền
và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà
Ngô Thị Ngọc H).
Phía ông Dương Văn Ú không đồng ý giao đất ông Ú cho rằng khi mẹ còn
sống cũng không có nói gì về việc bán đất cho bà S, nếu bà S có giấy chuyển
nhượng bản gốc đưa ra ông sẽ giao đất, giấy biên nhận photo ông không đồng ý và
chữ ký trong biên nhận không phải của mẹ ông.
Ông chỉ thừa nhận khi mẹ còn sống bà S có cho mẹ của ông số tiền
20.000.000đồng, nay con bà S khởi kiện ông chấp nhận trả lại cho con bà S số tiền
20.000.000đồng và số tiền lãi từ năm 2004 cho đến nay là 80.000.000đồng.
Căn cứ vào các chứng cứ tại phiên sơ thẩm và chứng cứ có trong hồ sơ thì
Biên nhận bán đất bản photo người làm chứng ông Dương Văn S1 có lời khai ngày
05/3/2004 cụ thể như sau: Đơn nhượng đất vườn ngày 08/9/2004 do ông viết hộ và
ký tên ở mục người viết hộ nhưng không có ghi dòng: “Số diện tích đất ngang
13m, chiều dài từ lộ đất giáp với hộ Phan Thị T5, người nhận tiền Phạm Thị N” và
cụ N không có ký tên. Cụ N có nhận của bà S 20.000.000đồng nhưng không phải
là tiền nhượng đất mà là bà S bán phần đất khác có tiền cho cụ N 20.000.000đồng
nên ông mới viết hộ đơn nhượng đất vườn ngày 08/9/2004 để bà S làm tin với
chồng bà S.
Tại bản tự khai ngày 26/7/2024 ông Dương Văn S1 khai là bà nguyệt đã xác
nhận nhận đủ số tiền. Ngày 27/8/2024 ông Dương Văn S1 rút lại lời khai ngày
26/7/2024 và ngày 05/3/2024.
Lời khai ông Dương Bá Đ1 là người chứng kiến việc giao dịch đất giữa bà S
và bà N trình bày ông có chứng kiến ông Dương Văn S1 viết biên nhận và đưa bà
N đọc ký tên vào chị tôi (bà S) đưa cho má tôi (bà N) số tiền 20.000.000đồng
tương ứng với 05 cây vàng thời đó vì thời đó mua bán đất nói bằng vàng….
Xét thấy nguyên đơn không có chứng cứ gì khác ngoài biên nhận bản photo,
bị đơn ông Ú không thừa nhận. Lời khai nhân chứng không khách quan, khai
không bất nhất không đủ để tin cậy.
Từ những phân tích trên, yêu cầu kháng cáo của bà T là không có cơ sở nên
Hội đồng xét xử không chấp nhận. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm
sát là có căn cứ nên được chấp nhận.
Về án phí do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo nguyên đơn bà T phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 1 Điều 308 Khoản 3 Điều 26; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm
a, khoản 1 Điều 39; Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và
Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Các điều 705, 706, 707, 708, 709, 110, 711 của Bộ Luật Dân sự năm 1995;
- Điều 3 Điều 73 và Điều 75 Luật đất đai năm 1993;
- Điều 357 và 468 của Bộ Luật Dân sự 2015;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Mai Thị Hồng T là người kế
thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Dương Thị S, đồng thời cũng là người đại
diện theo uỷ quyền của bà Ngô Thị Ngọc Huỳnh .
- Giữ y bản án dân sự sơ thẩm số 103/2024/DS-ST ngày 26 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang.
Xử:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Dương Thị S
(Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S là bà
Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H) đối với ông Dương Văn Ú về việc yêu
cầu ông Dương Văn Ú tách thửa phần đất có chiều ngang phía trước 06m, chiều
ngang phía sau 06m, chiều dài 45,89m
2
(giáp thửa đất số 3342) thuộc thửa số
3343, tờ bản đồ số 02, diện tích 725,4m
2
tại ấp D, xã T, huyện T, tỉnh Tiền
Giang cho nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố
tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị
Ngọc H) làm thủ tục đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trường
hợp ông Dương Văn Ú không đồng ý sang tên phần đất trên thì ông Dương Văn
Ú phải trả lại cho nguyên đơn bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa
vụ tố tụng của nguyên đơn bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị
Ngọc H) số tiền 700.000.000 đồng.
2. Ghi nhận việc ông Dương Văn Ú tự nguyện hoàn trả cho nguyên đơn bà
Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà
Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H) số tiền bà Dương
Thị S đã cho cụ Phạm Thị N là 20.000.000 đồng và 80.000.000 đồng tiền lãi.
Tổng cộng là 100.000.000 đồng. Thời gian thực hiện ngay khi án có hiệu lực
pháp luật.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và kể từ khi người được thi hành
án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không thực hiện nghĩa
vụ trả tiền thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật Dân sự.
Về án phí: Bà Dương Thị S (Người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của
bà Dương Thị S là bà Mai Thị Hồng T và bà Ngô Thị Ngọc H) phải chịu
300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Bà T đã đóng số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm và phúc thẩm là 600.000đồng theo
các biên lai thu số 20828 ngày 31/12/2020 và biên lai thu số 0003545, ngày
26/9/2024 của Chi cục thi hành án huyện T, sau khi được cấn trừ xem như bà T
đã thực hiện xong phần án phí.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 9 Luật thi
hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Tiền Giang;
- TAND huyện T;
- CCTHADS huyện T;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thanh Triều
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 31/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 30/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 29/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/07/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm