Bản án số 35/2024/DS-ST ngày 29/09/2024 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 35/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 35/2024/DS-ST ngày 29/09/2024 của TAND huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình về tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng thuê tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Lệ Thủy (TAND tỉnh Quảng Bình)
Số hiệu: 35/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bản án có hiệu lực pháp luật
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN LỆ THỦY
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 35/2024/DS- ST
Ngày: 29/9/2024
“V/v: Tranh chấp hợp đồng
thuê tài sản”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỆ THỦY- TỈNH QUẢNG BÌNH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Trương Thị Nhàn
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Ngô Mậu Hiệu
Ông Lê Quang Thạch
- Thư ký phiên tòa: Bà Đỗ Thị Diệu Linh - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Ngày 29 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình, Tòa án nhân dân huyện Lệ Thủy mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công
khai vụ án dân sự thụ lý số 60/TLST-DS ngày 08 tháng 7 năm 2024 về việc: Tranh
chấp hợp đồng thuê tài sản, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số
48/2024/QĐXXST-DS ngày 13 tháng 9 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số
35/QĐST-DS ngày 23/9/2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Phan Thanh B, sinh năm 1980 chị Hoàng Thị N, sinh
năm 1986, cùng địa chỉ: Thôn L, xã A, huyện L, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
Bị đơn: Anh Trần Thanh C, sinh năm 1993, địa chỉ: Thôn V, P, huyện L,
tỉnh Quảng Bình, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/6/2024, Bản tự khai và Biên bản hòa giải ngày
09/8/2024, cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn anh Phan Thanh B chị Hoàng
Thị N đều trình bày:
Anh chị chủ sử dụng hợp pháp của thửa đất số 87, tờ bản đồ số 11, diện
tích 117,0m
2
tại thôn X, L, huyện L, tỉnh Quảng Bình, theo Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số CN 793410 mang tên Phanh Thanh B và Hoàng Thị N. Ngày
01/10/2022 anh, chị hợp đồng cho thuê quyền sử dụng đất nói trên với anh
Trần Thanh C, anh C thuê đất với mục đích làm xưởng sửa chữa ô tô, thời hạn thuê
03 năm kể từ ngày 01/10/2022 đến ngày 01/10/2025; giá thuê là 35.000.000
đồng/năm; phương thức thanh toán, mỗi năm 01 lần vào tháng 10 hàng năm.
Nhưng sau khi thuê đất, anh C chỉ trả tiền thuê năm đầu tiên 35.000.000 đồng
2
cho vợ chồng anh chị, từ tháng 10/2023 cho đến nay anh C không trả tiền thuê đất
cho vợ chồng anh chị, mặc đã nhiều lần anh, chị tìm gặp, gọi điện thoại gửi
văn bản cho anh C, để yêu cầu thanh toán tiền thuê còn thiếu, đồng thời yêu cầu
thanh hợp đồng nhưng phía anh C không trả tiền ng không thanh hợp
đồng mà anh C vẫn tiếp tục sử dụng đất của anh chị để sửa chữa xe ô tô. Như vậy,
anh C đã vi phạm hợp đồng thuê đất, số tiền anh C còn nợ chưa tr35.000.000
đồng (theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 01/10/2022) và lãi chậm trả tính
từ ngày 01/10/2023 cho đến ngày xét xử (29/9/2024) 3.368.750 đồng (theo mức
lãi suất 10,5%/năm). Yêu cầu Hội đồng xét xử buộc anh Trần Thanh C trả cho anh,
chị số tiền cả gốc lãi 38.368.750 đồng yêu cầu tuyên chấm dứt Hợp đồng
thuê quyền sử dụng đất giữa anh, chị anh C; anh C phải nghĩa vụ thu dọn đồ
đạc của anh C ra khỏi thửa đất số 87 và trả lại thửa đất số 87 cho anh chị.
Bị đơn anh Trần Thanh C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai nhưng đã trình
bày qua Bản tự khai Biên bản hòa giải ngày 15/8/2024, với nội dung: Ngày
01/10/2022 anh kết Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất thửa đất số 87, tờ bản
đồ số 11, diện tích 117,0m
2
tại thôn X, L, huyện L, tỉnh Quảng Bình với anh B
chị N, để làm xưởng sửa chữa ô tô; thời hạn thuê 03 năm kể từ ngày 01/10/2022
đến ngày 01/10/2025; Giá thuê 35.000.000 đồng/năm, mỗi năm trả một lần vào
tháng 10. Lúc anh kết hợp đồng thuê, anh không biết thửa đất đó thuộc
quyền sở hữu, sử dụng của anh B chị N hay không nhưng đã chuyển tiền thuê năm
đầu 35.000.000 đồng. Đến đầu năm 2024 anh sợ bị lừa nên đã chấm dứt hợp
đồng thuê, không sử dụng thửa đất đó nữa, anh có nhắn tin và viết giấy gửi cho anh
B, chị N về việc anh không sử dụng không liên quan trên thửa đất đó nữa.
Nay anh B, chị N yêu cầu anh thanh toán số tiền thuê còn thiếu là 35.000.000 đồng
lãi, anh không nhất trí, anh đã thông báo cho anh B, chị N về việc trả lại đất
không sử dụng từ đầu năm 2024 cho đến nay. Đối với yêu cầu chấm dứt hợp đồng
hoàn trả lại thửa đất anh C nhất trí hiện nay anh không còn sử dụng thửa đất
đó nữa.
Qua phần xét hỏi, nguyên đơn anh Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N giữ
nguyên nội dung yêu cầu khởi kiện, chỉ thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, về số
tiền thuê theo hợp đồng thuê tài sản thì mỗi năm 35.000.000 đồng, thời gian anh C
vi phạm nghĩa vụ trả tiền là từ tháng 01/10/2023 cho đến 01/10/2024 nhưng Tòa án
xét xử vào ngày 29/9/2024 nên anh B chN rút bớt một phần tiền thuê 200.000
đồng, yêu cầu anh C thanh toán 34.800.000 đồng; về tiền lãi trước đây yêu cầu tính
lãi suất 10,5%/năm 3.368.750 đồng, hiện nay anh B, chị N rút yêu cầu về tính
lãi, chỉ yêu cầu tính lãi chậm trả theo quy định của pháp luật sau khi án có hiệu lực
pháp luật và người có quyền yêu cầu thi hành án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa;
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn anh Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N khởi kiện
yêu cầu trả tiền nợ thuê quyền sử dụng đất đối với bị đơn anh Trần Thanh C, đây là
3
“Tranh chấp Hợp đồng dân sự thuê tài sản” theo quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ
luật Tố tụng dân sự; bị đơn anh Trần Thanh C nơi trú tại P, huyện Lệ
Thuỷ, tỉnh Quảng Bình nên Toà án nhân dân huyện Lệ Thuỷ thụ lý giải quyết đúng
thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 điểm a khoản 1 Điều 39
Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử
Giấy triệu tập phiên tòa hai lần cho bị đơn anh Trần Thanh C, nhưng tại phiên
tòa lần thứ hai anh C vẫn vắng mặt không do, Hội đồng xét xử thống nhất
tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn theo điểm b khoản 2 Điều 227 khoản 3
Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về nội dung:
[2.1] Xét điều kiện hiệu lực của giao dịch dân sự: Theo lời khai, các tài
liệu, chứng cứ do hai bên cung cấp, về nội dung và hình thức hợp đồng thuê tài sản
quyền sử dụng đất, hợp đồng bằng văn bản, đối tượng của hợp đồng thửa đất
số 87, tờ bản đồ số 11, diện tích 117,0m
2
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số CN 793410 đứng tên chủ sử dụng anh Phan Thanh B chị Hoàng Thị N. Cả
hai bên khi tham gia giao kết hợp đồng đều năng lực hành vi dân sự; mục đích
nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức hội; các bên tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. Do đó, giao dịch dân
sự giữa anh Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N anh Trần Thanh C hợp đồng
thuê tài sản có hiệu lực, phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
[2.2] Về yêu cầu của nguyên đơn, tại phiên tòa anh Phan Thanh B, chị
Hoàng Thị N rút bớt một phần yêu cầu khởi kiện về tiền thuê đất 200.000 đồng
toàn bộ tiền lãi 3.368.750 đồng, giữ nguyên các yêu cầu khác theo đơn khởi kiện,
cụ thể: Yêu cầu anh Trần Thanh C phải nghĩa vụ thanh toán tiền thuê đất
34.800.000 đồng theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày 01/10/2022 yêu
cầu tuyên chấm dứt Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất giữa anh, chvà anh C, buộc
anh C phải nghĩa vụ di dời toàn bộ đồ đạc ra khỏi thửa đất để hoàn trả lại thửa
đất đã thuê cho anh B, chị N. Việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
tự nguyện, phù hợp với pháp luật nên cần đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
[2.3] Xét chứng cứ hai bên giao nộp: Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất ngày
01/10/2022 chữ của nguyên đơn anh Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N bị
đơn anh Trần Thanh C. Anh C vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại bản tự khai, anh C
cũng thừa nhận kết Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất với anh B, chị N
nhưng đến đầu năm 2024 anh không sử dụng thửa đất đó nữa nên anh đã báo cho
anh B chị N về việc chấm dứt hợp đồng. Qua Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
nói trên, Hội đồng xét xử có cơ sở xác định: Hai bên đã ký hợp đồng thuê đất, theo
đó, anh C thuê đất của anh B, chị N thửa đất số 87, tờ bản đồ số 11, diện tích
117,0m
2
tại thôn X, xã L, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, để làm nơi sửa chữa xe
ô tô, thời hạn 03 năm, bắt đầu từ ngày 01/10/2022 đến 01/10/2025, giá trị thuê mỗi
năm 35.000.000 đồng, mỗi năm trả một lần vào tháng 10 hàng năm. Sau khi thuê
anh C trả năm đầu tiên 35.000.000 đồng vào ngày 01/10/2022. Từ ngày 01/10/2023
cho đến nay anh Trần Thanh C không tiếp tục thanh toán tiền thuê cho anh Phan
4
Thanh B, chị Hoàng Thị N, nay anh C còn nợ lại tiền thuê quyền sử dụng đất của
anh B, chị N tngày 01/10/2023 đến nay chưa thanh toán vi phạm nghĩa vụ trả
tiền theo thỏa thuận trong hợp đồng thuê tài sản. Việc anh C cho rằng đầu năm
2024 anh đã thông báo và có gửi giấy thông báo cho anh B, chị N về việc chấm dứt
Hợp đồng nhưng anh C không đưa ra được những tài liệu chứng cứ gì chứng minh
việc anh C đã thông báo việc chấm dứt hợp đồng với anh B chị N, không thể hiện
đã thanh lý hợp đồng. Do đó, việc trình bày của anh C không có căn cứ. Ngược lại
trong hồ tài liệu chứng cứ thể hiện anh B, chị N nhiều lần gửi thông báo về
việc yêu cầu thanh toán tiền thuê đất theo hợp đồng đến anh Trần Thanh C, vận
đơn báo phát kèm theo. vậy, theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, căn cứ
anh C đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong hợp đồng nên cần buộc anh Trần
Thanh C phải nghĩa vụ thanh toán tiền thuê quyền sử dụng đất còn thiếu cho
anh Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N từ ngày 01/10/2023 đến ngày 29/9/2024 số
tiền 34.800.000 đồng, căn cứ phù hợp với các Điều 472, 473, 474, 481,
482 và 500 của Bộ luật dân sự.
[3] Về án phí dân sự thẩm: Yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên
nguyên đơn không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, bị đơn phải chịu toàn bộ án phí
dân sự thẩm trên số tiền phải có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn theo quy định tại
Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự khoản 2 Điều 26 Ngh quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo luật
định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 244 của Bộ luật tố
tụng dân sự; các Điều 357, 472, 473, 474, 481, 482, 500 của Bộ luật dân sự; Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh Phan Thanh B, chị
Hoàng Thị N.
Buộc bị đơn anh Trần Thanh C phải nghĩa vụ trả tiền thuê đất còn thiếu
cho anh Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N theo Hợp đồng thuê quyền sử dụng đất
ngày 01/10/2022 là 34.800.000 đồng (ba mươi tư triệu tám trăm nghìn đồng).
2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện về tiền nợ hợp đồng tiền lãi
3.568.750 đồng.
3. Tuyên chấm dứt Hợp đồng thuê quyền sử dụng ngày 01/10/2022 giữa anh
Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N anh Trần Thanh C. Anh Trần Thanh C phải có
nghĩa vụ thu dọn toàn bộ đồ đạc vật dụng của mình trên thửa đất số 87, để trả lại
5
thửa đất số 87, tờ bản đồ số 11, diện tích 117,0m
2
tại thôn X, xã L, huyện Lệ Thủy,
tỉnh Quảng Bình cho anh Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N.
Kể từ ngày đơn yêu cầu của người được thi hành án cho đến khi thi hành
xong tất cả khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
của Bộ luật dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật thi hành án
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
2. Về án phí: Buộc anh Trần Thanh C phải chịu 1.740.000 đồng (một triệu
bảy trăm bốn mươi nghìn đồng) án phí dân sự thẩm để nộp vào ngân sách Nhà
nước. Anh Phan Thanh B, chị Hoàng Thị N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
được trả lại số tiền tạm ứng án phí 936.250 đồng đã nộp theo biên lai thu số
0004415 ngày 05/7/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình.
Nguyên đơn quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày
tuyên án (29/9/2024), bị đơn vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể
từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết, để yêu cầu Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử vụ án phúc thẩm.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trương Thị Nhàn
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND h. Lệ Thủy;
- TAND tỉnh Quảng Bình;
- Chi cục THADS h. Lệ
Thủy;
- Lưu HS, VP.
Tải về
Bản án số 35/2024/DS-ST Bản án số 35/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 35/2024/DS-ST Bản án số 35/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất